Khổ 3: Bức tranh tứ bình lộng lẫy:
- Thời điểm: đêm trăng, ngày mưa, bình minh, hoàng hôn.
- Cấu tứ: Một câu nói về thiên nhiên, một câu nói về hình ảnh con hổ. Hình ảnh thiên nhiên phong phú, lãng mạn và thi vị. Hình ảnh con hổ nổi bật với tư thế lẫm liệt, kiêu hùng và đầy uy lực. Cảnh dù hiện lên trong tâm tưởng, trong hoài niệm của con hổ nhưng hết sức sống động, như thước phim của kí ức được tua lại vẹn nguyên trong trí óc của con hổ.
- 4 bức tranh mở ra 4 cảnh, mở ra 4 kỉ niệm về quá khứ vàng son của con hổ. 4 cảnh này được xem là tuyệt bút, tạo nên bức tranh tứ bình độc đáo. Đoạn thơ này thể hiện sự am hiểu và sự vận dụng sáng tạo, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của Thế Lữ. Bởi tứ bình là nghệ thuật đặc sắc của thơ ca thời trung đại. Khi nói về vẻ đẹp cao sang quý phái, người ta thường hay sử dụng hình ảnh long, li, quy, phượng; khi nói về vẻ đẹp của người quân tử, thường gửi gắm vào hùng ảnh tùng, cúc, trúc, mai; hay khi nói đến 4 nghề nghiệp thường sử dụng tứ trụ: ngư, tiều, canh, mục. Tranh tứ bình với 4 cặp câu thường tự nó biểu đạt một nội dung hoàn chỉnh, kí thác một nỗi niềm nào đó. Trở lại với đoạn thơ của Thế Lữ, ta thấy được, mỗi cặp câu cũng tạo ra một hình ảnh độc đáo. Hình ảnh con hổ là biểu tượng cho những người dân VN bị mất tự do thời bấy giờ đã mang lại cho câu thơ, đoạn thơ dáng dấp hiện đại. Và bức tranh tứ bình trong bài thơ này tự nó đã tạo thành một chỉnh thể, diễn đạt một nội dung hoàn chỉnh: nói về nỗi nhớ của con hổ với quá khứ vàng son.
- Đoạn bức tranh tứ bình này mỗi cảnh là một mảnh ghép của kí ức, có cảnh ban ngày, có cảnh ban đêm, có cảnh lãng mạn thi vị, có cảnh linh thiêng, thâm u. Những đường nét của bức tranh tứ bình ấy đã làm tái hiện vẹn nguyên quá khứ vàng son của con hổ. Điều đó cho thấy nỗi nhớ da diết cồn cào của con hổ khi sống trong trạng thái tù đày, mất tự do.
* Bức tranh thứ nhất:
- Đó là cảnh “những đêm vàng bên bờ suối” diễm ảo, và con hổ như một nghệ sĩ lãng tử “say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Lãng tử nhưng cũng rất kiêu bạt ở tư thế đứng uống. Hổ uống dòng nước suối tan ánh trăng lấp lánh hay hổ đang uống những ngụm trăng đang tan vào không gian?
- Trong bức tranh thứ nhất này, cảnh là một đêm đầy trăng. Trăng bao trùm lên vạn vật, lên cả không gian. Sắc vàng của trăng như tan ra, hòa lẫn với dòng nước suối để cho hổ uống. Cảnh đẹp huyền ảo, thật thi vị và lãng mạn.
- Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, ta có cảm giác như hổ say mồi thì ít mà say ánh trăng thì nhiều. Chúa sơn lâm cũng như đang say đắm, rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Đây là hình ảnh thực được viết dưới ngòi bút lãng mạn bởi: vẫn là cảnh con hổ uống nước nhưng dưới sự hóa thân của thi nhân thì lại trở nên lãng mạn, thi vị hơn bao giờ hết. Con hổ hiện lên không chỉ trong dáng vẻ của một chúa sơn lâm đầy uy nghi, dũng mãnh mà còn chứa tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn bay bổng, say sưa cảm nhận cảnh đẹp trăng đẹp đẽ.
- Cảnh đêm trăng còn gợi ra đêm của tự do, đêm mà con hổ còn được vùng vẫy, làm chủ chốn rừng thiêng. Bởi thế, không gian ấy, cảnh vật ấy là của sự tự do, là của quá khứ vàng son một đi không trở lại. Cảnh đẹp nhưng lại gợi niềm tiếc nuối khôn cùng.
* Bức tranh thứ hai:
- Cụm từ “chuyển bốn phương ngàn” diễn tả rất chính xác những cơn mưa rừng trong những biến chuyển dữ dội của thiên nhiên. Giữa cái hà khắc, dữ dội của thiên nhiên ấy, có biết bao loài vật đang run sợ, mong được náu mình, mong được yên ổn, thậm chí là sự che chở để được yên thân. Còn hổ lại có tâm trạng khác, thật xứng đáng với tư thế của một vị chúa sơn lâm rừng thẳm.
- Hổ ung dung, tự tại nhưng cũng không kém phần ngây ngất ngắm giang san đổi mới. Sự điềm nhiên của hổ chứa đựng một sự thanh thản, một bản lĩnh vững vàng, một sức mạnh chế ngự mà không có gì có thể làm suy chuyển, lung lay được hổ.
=> Thủ pháp đối lập đã làm nổi bật vẻ đẹp uy nghi, vững vàng của chúa sơn lâm rừng thẳm.
* Bức tranh thứ ba:
- Sau bức tranh âm u, dữ dội là bức tranh tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh. Với cách sử dụng từ ngữ có tính gợi tả cao “bình minh”, “nắng gội”, “tưng bừng” đã gợi lên vẻ tươi tắn, trẻ trung, thiên nhiên tràn đầy sức sống.
- Cảnh bình minh rộn rã tiếng chim ca, trong trẻo, thú vị, hình ảnh của chúa sơn lâm thật êm đềm. Góp phần tạo nên sắc thái tưng bừng, rộn rã là âm thanh của bình minh tưng bừng. Con hổ hoạt động theo cách riêng của mình – một vị chúa sơn lâm. Thiên nhiên vạn vật bừng tỉnh kia dường như chỉ là nền cảnh để tô điểm cho giấc ngủ say sưa của con hổ.
* Bức tranh thứ tư:
- Bức tranh thứ 4 này là cảnh dữ dội nhất, bi tráng nhất. Bức tranh với những gam màu rực rỡ: màu máu, màu của mặt trời.
- Hình ảnh và cách dùng từ thật lạ và đắt. Thủ pháp đảo ngữ được sử dụng khiến cho cảnh tượng thêm phần gay gắt và mãnh liệt. Dưới cái nhìn của mãnh thú, những ánh hoàng hôn rực đỏ bỗng biến thành “lênh láng máu sau rừng”. Mặt trời và hổ đang trong cuộc giao tranh quyền lực khốc liệt. Vầng mặt trời là thứ vĩnh hằng, lớn lao nhưng trong mắt của hổ thì trở nên thật nhỏ bé, không đáng chấp: chỉ là “mảnh mặt trời” mà thôi.
- Không những thế, hổ còn nắm chắc cơ hội thắng thế của mình. Nó kiêu ngạo nhìn mặt trời hấp hối. Con hổ đang đợi mảnh mặt trời nhỏ bé kia chết đi, lặn đi để cả uy lực vũ trụ nhường lại cõi thiêng cho nó, cho vị chúa sơn lâm.
=> Song đoạn bức tranh tứ bình này cũng gửi gắm cả niềm đau của con hổ. Quá khứ và hiện tại đối lập đến đau xót. Một loạt điệp ngữ: “nào đâu”, “đâu những”,… cứ lặp đi lặp lại, những câu hỏi tu từ cứ ngân lên riết róng và nhức buốt. 4 câu hỏi tu từ đi kèm trong mỗi bức tranh tứ bình đã thể hiệnn được niềm tiếc nuối, xót xa, nỗi nhớ đến da diết, dồn dập. Mỗi cảnh là một kỉ niệm đẹp, hoàn thiện mảnh ghép về quá khứ vàng son, thiêng liêng, lớn lao của con hổ.
- Giấc mơ huy hoàng của con hổ đã khép lại trong tiếng than: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”:
+ Đó là nỗi nhớ về rừng xưa da diết, khắc khoải. Là nỗi nhớ rừng – nhớ tự do.
+ Đó là bài thơ gửi gắm lòng yêu nước một cách kín đáo và sâu sắc.
=> Đoạn thơ bức tranh tứ bình được xem là đoạn tuyệt bút. Thể hiện nỗi nhớ và khát khao tự do đến cháy bỏng của vị chúa sơn lâm.