- Vào khoảng các thế kỉ VIII - VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần dần hình thành những bộ lạc lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế, sản xuất phát triển.
- Trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu làm người đứng đầu để trông coi mọi việc; một số ít nghèo khổ, phải rơi vào cảnh nô tì. Mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo đã nảy sinh và ngày càng tăng thêm.
- Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn gặp nhiều khó khăn.
=> Vì vậy, cần phải có người chỉ huy đứng ra tập hợp nhân dân các làng bản chống lại lụt lội, bảo vệ mùa màng (làm thủy lợi).
- Cần có thủ lĩnh chỉ đạo các cuộc đấu tranh chống xung đột.
=> Nhà nước Văn Lang đã ra đời trong hoàn cảnh phức tạp trên.
Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Văn Lang :
Nhận xét :Nhà nước Văn Lang còn rất sơ khai nhưng nó đã đặt nền móng cho sự phát triển, đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nước ta sau này.
Hoàn cảnh ra đời nước Văn Lang:
- Do sản xuất phát triển, xã hội phân hóa giàu nghèo.
- Do nhu cầu bảo vệ mùa màng, cần giải quyết về vấn đề thủy lợi.
( Truyền thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh nói lên hoạt động làm thủy lợi, chống thiên tai bão lũ).
- Do nhu cầu giải quyết xung đột để có cuộc sống yên ổn.
Nhận xét: Bộ máy nhà nước còn đơn giản, tuy chưa có luật pháp và quân đội nhưng đã là một tổ chức chính quyền cai quản đất nước.