– Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại : truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. – Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc, đậm đà chất Nam Bộ. II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác: « Chiếc lược ngà » được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Văn bản đoạn trích là phần giữa của truyện, tập trung thể hiện tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu. 2.Tình huống cơ bản của truyện. – Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau 8 năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha. Đến lúc em nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi – Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con, nhưng chiếc lược chưa gửi đến tay con thì ông Sáu đã hi sinh. Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản. Và nếu tình huống này bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối với đứa con. 3. Tên truyện: “Chiếc lược ngà” là cầu nối tình cảm giữa hai cha con ông Sáu. Chiếc lược ngà là kỉ vật của người cha vô cùng yêu con để lại cho con trước lúc hy sinh…. 4. Thể loại- phương thức biểu đạt: Truyện ngắn – Tự sự 5. Ngôi kể : – Tác giả đã kể chuỵên từ nhân vật “Tôi”- «ông Ba – người chứng kiến câu chuyện. Ngôi kể này đã tạo được một giọng điệu kể chuyện thủ thỉ, gợi cảm giác chân thực và gần gũi với người đọc. Khi cần có thể bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ đối với sự kiện và nhân vật. 6. Chủ đề: Tình cha con sâu sắc và cảm động của người chiến sĩ Cách mạng trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. 7. Nội dung: Truyện đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Qua đó tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. 8. Nghệ thuật: Cốt truyện chặt chẽ, tình huống bất ngờ nhưng hợp lý. Truyện thành công trong việc miêu tả tâm lí và xây dựng tính
cách nhân vật, Lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. 9. Tóm tắt : – Ông Sáu ở chiến khu về thăm nhà với hy vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, hai bố con chưa hề gặp mặt. – Mấy ngày đầu, do vết sẹo trên mặt ông Sáu khác với tấm hình chụp ở nhà nên bé Thu không nhận bố. – Đến hôm ông Sáu phải lên đường, nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu đã nhận ba của mình. – Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm cho con gái một chiếc lược chải tóc bằng ngà. Lúc hấp hối (do bị trúng đạn máy bay Mĩ) ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con. III. Phân tích. 1. Tâm trạng và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha. Nhận xét về tính cách của bé và nghệ thuật miêu tả nhân vật này của tác giả. a. Khi chưa nhận ra cha mình. – Sau bao năm đi kháng chiến, ông Sáu về thăm gia đình thì bé Thu đã lên tám tuổi. Ông khát khao tiếng gọi “ba” của con gái yêu. Ông đã tìm đủ mọi cách để cô bé nhận cha và gọi “ba”. Nhưng ông càng gần thì con bé càng lánh xa. Niềm khao khát mà ông Sau mong đợi đã bị cô cự tuyệt. Đỉnh điểm của tình huống này là khi bé Thu nhắc nồi cơm. Cứ ngỡ vào hoàn cảnh ấy, cô bé sẽ cần sự giúp đỡ của anh và sẽ nhượng bộ. Nhưng nó đã không cần. – Nguyên nhân bé Thu không không nhận cha nằm ở chỗ tấm hình của ông Sáu và khuôn mặt ông ngoài đời khác nhau. Mọi lời giải thích đều vô nghĩa. Theo lô-gic thông thường, những hành động của bé Thu thật đáng ghét. Nhưng nhìn từ phía khác, đó lại chính là nét đẹp trong tính cách của Thu. Bé Thu yêu cha sâu sắc đến nỗi nếu ai không giống cha nó trong ảnh thì nó không thể nhận. Đây là thái độ dứt khoát, kiên định của cô bé. b.Khi nhận ra người cha thân yêu. – Trong buổi sáng cuối cùng, trước lúc ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé thay đổi đột ngột. + Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ ba” và đó là tiếng kêu như xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới; nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “ Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa {…} hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ, hai tay không thể giữ được ba nó, nó dạng cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. – Bé Thu nhận ra cha vì được bà ngoại giải thích. Đêm ấy, “ nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Chi tiết này cho thấy cô bé suy nghĩ và hối hận về những hành động của mình. Nhưng thật cảm động và đau đớn vì đây là tiếng gọi ba lần cuối vì sau đó ông Sáu đã hi sinh. => Qua biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét tính cách của nhân vật. Đó là một tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi; bên cạnh đó, ở Thu còn có nét cách tính cứng cỏi đến mức tưởng như là ương ngạnh, nhưng dù sao bé Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ. – Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, với tấm lòng yêu mến trân trọng những tình cảm trẻ thơ, ta thấy tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tâm lí trẻ em. 2. Tình cảm của ông Sáu. – Trong lần về thăm nhà, ngày đầu tiên sau tám năm xa cách, vì tình thương và nỗi nhớ con chất chứa đã nhiều năm nên không thể bình tĩnh mà rất nôn nóng vồ vập(chú ý chi tiết: xuồng chưa cập bờ đã nhảy vội lên, bước vội vàng với những bước dài , kêu to, vẻ mặt xúc động làm vết thẹo dài bên má phải ửng đỏ lên giần giật). – Trong những ngày ở nhà, ông Sáu đã tìm mọi cách để gần gũi, thương yêu con gái. Ông đã khao khát biết bao nhiêu tiếng gọi “ba” từ con gái mình.(Lúc bé Thu nấu cơm). – Rồi ông chăm sóc nó (bữa cơm gắp trứng cá cho nó…) – Tuy nhiên, tình cha đối với con được miêu tả kĩ lưỡng khi ông Sáu ở chíến khu: + Ông hối hận vì đã đánh con khi quá nóng giận. + Ông dồn toàn bộ niềm say mê, tình thương yêu để làm chiếc lược ngà cho con theo lời con dặn.(chú ý các chi tiết thể hiện tình yêu thương con: cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc, tẩn mẩn khắc chữ, mài lên tóc mình cho thêm óng mượt). + Trước khi hi sinh, ông Sau đã nhờ bạn mình chuyển cây lược đến cho bé Thu. Đó không phải là chiếc lược thông thường.
Câu 1:
a. Kể tóm tắt đoạn trích:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho em không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Tại khi căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con.
b. Các tình huống bất ngờ:
- Tình huống không chịu nhận ba của bé Thu là bất ngờ đầu tiên. Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi bé Thu chưa đầy một tuổi.Sau tám năm xa cách, anh trở về, đứa con gái không chịu nhận ba. Đến lúc bé Thu nhận ra và gọi aanh bằng ba là lúc anh phải ra đi nhận nhiệm vụ mới.
- Tình huống thứ hai: Anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.
Câu 2:
a. Diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu:
- Trước khi nhận anh Sáu là cha:
+ Thái độ xem anh Sáu như người xa lạ: khi anh Sáu gọi " Thu , con " , bé thu giật mình , tròn mắt nhìn , ngơ ngác , lạ lùng và chạy kêu thét " Má! ...."
+ Ương ngạnh, đáng yêu: nó nhất định không chịu gọi anh Sáu bằng ba mà luôn nói trổng "cơm chín rồi", "vô ăn cơm ", "cơm sôi rồi, nhão bây giờ ".
+ Sự phản ứng của em chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu cha sâu sắc. Tình yêu ấy đã khắc ghi trong trái tim ngây thơ đầy kiêu hãnh nên em không chấp nhận người đàn ông có sẹo là cha.
- Từ khi nhận anh Sáu là cha:
+ Khi nghe ngoại giải thích ( vết thẹo ) nó tỏ niềm ân hận day dứt "nằm im, lăn lội, thở dài như người lớn" .
+ Anh Sáu chào "Thôi ! ba đi nghe con" thì tình cảm trong Thu bỗng trỗi dậy mãnh liệt bằng tiếng gọi "Ba...a...a...ba" xé sự im lặng , xé ruột gan mọi người . Tiếng gọi thể hiện cảm xúc dồn nén bị vỡ òa , thể hiện tình yêu sâu sắc mà thu cất giữ trong sau thẳm tâm hồn. Hành động như con sóc chạy đến anh Sáu ôm hôn ....hôn cả vết thẹo. Cảm động hơn nữa là khi chứng kiến cảnh Thu bấm chặt người ba như sợ ba đi mất.
b. Tính cách nhân vật bé Thu
- Tình cảm mạnh mẽ sâu sắc nhưng cũng rất dứt khoát, rạch ròi.
- Có nét cá tính cứng cỏi đến mức ương ngạnh nhưng vẫn là đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ.
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả:
Cách miêu tả diễn biến tâm lí thành công : Từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nô những yêu thương do bị dồn nén. Thể hiện được điều đó chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lý trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Câu 4:
Người kể chuyện trong vai một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật; cảm nhận được tình cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên của tác giả.
Chọn cách kể chuyện như vậy có nhiều tác dụng:
- Làm cho câu chuyện trở nên thật và đáng tin cậy.
- Nhân vật được nhìn nhận, đánh giá khách quan.
- Người kể có thể kể linh hoạt, tự do những gì diễn ra với nhân vật.
"Chiếc lược ngà" là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha con cảm động của anh Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh. Bài giảng Chiếc lược ngà Ngữ văn 9 giúp quý thầy cô giáo tham khảo soạn bài giảng hiệu quả. Chúc thầy cô và các em có tiết học hay.
Mời các bạn tham khảo những bài viết liên quan tới tác phẩm Chiếc lược ngà:
Soạn văn bài: Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng Hướng dẫn soạn bài Chiếc lược ngà lớp 9
Tóm tắt truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng Tài liệu Ngữ văn lớp 9
Văn mẫu lớp 9: Các cuộc gặp gỡ trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật bé Thu trong tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng Văn mẫu chọn lọc lớp 9
Soạn
I – Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
- Nguyễn Quang Sáng, sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới,tỉnh An Giang.
- Trong kháng chiến chống Pháp,ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
- Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn..
- Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
- Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966–khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
- Nói về hoàn cảnh viết truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng tâm sự:
“Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây.Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi nghe cô kể chuyện, tôi ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này”.
- Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích phần giữa của truyện.
b. Bố cục: 2 đoạn:
- Đoạn 1: Từ đến…đến…”Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống”. -> Tình cảm cha con của bé Thu và ông Sáu trong ba ngày ông được nghỉ phép.
- Đoạn 2: Còn lại -> Ở khu căn cứ, ông Sáu làm chiếc lược ngà tặng con.
c.Chủ đề:Diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
d. Tóm tắt văn bản:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến.Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến khi Thu nhận ra cha,tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con. Trong một trận càn, ông Sáu hi sinh. Trước lúc ra đi mãi mãi, ông đã kịp trao cây lược cho bác Ba, nhờ bạn chuyển cho con gái.
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Tình huống truyện: Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ bản:
- Tình huống 1: Đó là cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải lên đường.
- Tình huống 2: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.
=> Như vậy, nếu ở tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha, thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc, thắm thiết của ông Sáu với con. Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Đó là những tình huống ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Song đặt các nhân vật của mình vào các tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca:tình cha con thiêng liêng, sâu nặng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.
2. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu.
a. Trước khi nhận ra cha:
- Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nhưng không,Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba. “Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng...”. Khi ông Sáu đến gần, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con” thì “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi,rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má !”.
- Suốt ba ngày, ông Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, ông càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”.
+ Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm ông Sáu đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười.
+ Đến bữa sau, má giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm,nó không thể tự chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”.Bác Ba mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Ông Sáu cứ vẫn ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ.
+ Đỉnh điểm của kịch tính: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ , ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh,Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.
- Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp,nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba.Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má - người ba với gương mặt không có vết thẹo dài.
b. Khi nhận ra cha:
- Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.
- Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. facebook.com/hocvanlop9 Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.
- Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má,khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.
- Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. facebook.com/hocvanlop9 Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
=> Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu,người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát,rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ ( cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ.
=> Qua những diễn biến tâm lí của Thu, ta thấy tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
3. Tình cha con sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu:
- Nỗi khao khát gặp lại con sau tám năm xa cách.
+ Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con” Anh vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi xúc động….
+ Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy.
- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.
+ Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực:Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Anh đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười” vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”.
+ Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. -> Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của người cán bộ kháng chiến.
- Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn cứ:
+ Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con.
+ Lời dặn của con lúc chia tay đã thôi thúc ông làm cho con cây lược.
+ Tác giả diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện ông làm chiếc lược:
_ Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà:“từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
_ Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ:“Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ.
_ Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược.Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con -> Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng.
- Ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
=> Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của ngườicha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.
III – Tổng kết:
1. Nội dung:
-Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
-Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
2. Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí
- Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ,bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan.
- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu.
- Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
I. Đọc – hiểu văn bản Câu 1. a. Kể tóm tắt đoạn trích. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho em không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Tại khi căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con. b. Tình huống bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu. - Tình huống thứ nhất : Tình huống cơ bản. Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách. Trớ trêu thay, bé Thu không nhận cha. Đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thì ông Sáu phải ra đi. - Tình huống thứ hai : Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình cảm yêu thương con vào việc làm một cây lược ngà tặng con. Cây lược làm xong thì ông hy sinh khi chưa kịp gửi cây lược ấy cho con. Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha với con. Câu 2. a. Phân tích diễn biến tâm lý và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng khi ông Sáu về thăm nhà. - Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha : + Gặp cha sau tám năng xa cách trước sự vồ vập của cha, bé Thu tỏ ra ngờ vực và hoảng sợ « Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn mình như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêt thét lên : « Má ! Má ! ». Đó là cuộc gặp gỡ ngoài ý muốn của Thu bởi em chờ đọi một hình ảnh khác, hình ảnh người cha giống hệt tấm hình chụp chung với má. + Ba ngày phép của cha. Thu tỏ ra lạnh nhạt. Tình cảm của em đối với cha ngày càng xấu đi. Từ chỗ em chỉ gọi trống không với cha : « Vô ăn cơm », « Cơm chín rồi ! », « Con nói rồi mà người ta không nghe », hoặc « Cơm sôi rồi chắt nước giùm cái » đến chỗ em không chấp nhận sự chăm sóc của cha. Khi ông Sáu gắp một cái trứng bỏ vào bát cơm : « Nó liên lấy đũa xoi vào chén để rồi bất thần hất cái trứng cá ra, cơm văn tung tóe cả mâm » và cao hơn là nó đã bỏ đi : « Nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho day lòi tói khua rôn ràng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua ông, nó sang nhà ngoại ». Sự phản ứng của Thu càng ngày càng quyết liệt, từ chỗ ngấm ngầm đến chỗ rõ ràng, mạnh mẽ chứng tỏ đây là cô bé ngang ngạnh, bướng bỉnh. Sự ngang ngạnh của em hoàn toàn « có lí » và không đáng trách vì em đâu có biết vết sẹo trên mặt ba là do chiến tranh, em đâu có biết người đàn ông có « Vết thẹo dài bên má phải », « đỏ ửng », « giần giật, trông rất dễ sợ » kia lại là người mà em trông đợi bấy lâu. Sự phản ứng của em chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu cha sâu sắc. Tình yêu ấy đã khắc ghi trong trái tim ngây thơ đầy kiêu hãnh nên em không chấp nhận người đàn ông có sẹo là cha. Chi tiết vết sẹo là một chi tiết đắt giá. Nó có giá trị lớn trong việc xây dựng tình huống, bộc lộ tình cảm cha con đồng thời có giá trị tố cáo chiến tranh đã làm con người bị biến dạng, chiến tranh đã làm cho con người không nhận ra cho, chiến tranh len lỏi tàn phá từng gia đình, tàn phá, hủy diệt mọi lĩnh vực để đến nõi con không nhận ra cha. - Thái độ, hành động của Thu khi nhận ra cha : Trong buổi sáng cuối cùng trước khi chia tay thái độ bé Thu đã thay đổi đột ngột : Thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng thét lên : Ba…a…a….ba ! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng « Ba » mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng « Ba » như vỡ tung ra từ đáy lòng nó. « Nó nhảy thót lên ôm lấy cổ ba nó. Nó hôn tóc, hôn vai, hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài bên má ba nó. Hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không giữ được ba nên nó dang cả hai chân câu chặt lấy ba, đôi vai của nó run run » chi tiết sinh động đầy kịch tính diễn tả thành công sự bùng nổ mạnh mẽ, sự đột phá dữ dội của tình cảm, bao nhiêu yêu thương mong đợi dồn nén giờ đây òa vỡ, những giọt nước mắt yêu thương xen lẫn sự hối hận và hành động ôm hôn ba của Thu. b. Tính cách nhân vật bé Thu. - Tình cảm mạnh mẽ sâu sắc nhưng cũng rất dứt khoát, rạch ròi. - Có nét cá tính cứng cỏi đến mức ương ngạnh nhưng vẫn là đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ. c. Nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả. Cách miêu tả diễn biến tâm lí thành công : Từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nô những yêu thương do bị dồn nén. Thể hiện được điều đó chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lý trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Câu 3. a. Tình cam cao đẹp của ông Sáu với con. Tình cảm của ông Sau với con thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà nhưng được biểu hiện tập trung, sâu sắc ở phần cuối truyện khi ông Sáu ở trong rừng, tại khu căn cứ. - Nỗi ân hận, day dứt cứ ám ảnh ông nhiều ngày vì ông đã nóng giận đánh con trong những ngày nghỉ phép. - Lời dặn dò của con gái : « Ba về ! Ba mua cho con một cây lược ngà nghe ba » đã thôi thúc ông nghĩ đến việ làm một cây lược ngà cho con. - Khi kiếm được khúc ngà voi, ông mừng vô cùng, ông dành hết tâm trí, công sức vào làm một cây lược : « Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc », « trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà ông đã gò lưng, tần mẩn khắc từng nét : Yêu nhớ tặng Thu, con của ba ». Chiếc lược ngà đã trở thành một báu vật đối với ông. Nó làm dịu đi nỗi ân hận day dứt. Nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha những ngày xa cách. Nhưng rồi tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu. Ông Sáu hi sinh khi chưa kịp gặp lại con. Chiếc lược ngà chưa tới được tay bé Thu. b. Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình thương thắm thiết, sâu nặng muôn đời của cha con ông Sáu mà còn gợi cho ta nghĩ đến nỗi đau của chiến tranh. Chiến tranh gây đau thương mất mát cho biết bao con người, biết bao gia đình. Câu 4. Truyện được trần thuật theo lời người bạn thân thiết nhất của ông Sáu, người được chứng kiến những cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao xúc động ở nhân vật kể chuyện, nhất là sự việc lúc cha con anh Sáu chia tay : « Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng « Ba » mà nó cố đè nén trong bai nhiêu năm nay, tiếng « Ba « vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hy sinh mà ông Sáu phải chịu khiến cho người kể chuyejn « Bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim ». c. Chọn cách kể chuyện như vậy có nhiều tác dụng : - Làm cho câu chuyện trở nên thật và đáng tin cậy. - Nhân vật được nhìn nhận, đánh giá khách quan. - Người kể chuyện hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe. Vi dụ đoạn : « Trong cuộc đời kháng chiến của mình, mình chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chia tay nhưng chưa bao giờ bị xúc động như lần ấy » hoặc « Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng
Tóm tắt:
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cha không giống trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Tại khi căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con.
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu...từ từ tuột xuống): Tình cảm bé Thu và ông Sáu trong ba ngày ông được nghỉ phép.
- Phần 2 (còn lại) : Ở khu căn cứ, ông Sáu làm chiếc lược ngà tặng con.
Đọc hiểu văn bảnCâu 1 (trang 202 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Các tình huống:
- Tình huống không chịu nhận ba của bé Thu.
- Tình huống anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược ngà cho con gái. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.
Câu 2 (trang 202 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng:
+ Trước khi nhận ra cha : ngơ ngác, sợ hãi khi mới gặp cha, tròn mắt, lạnh lùng nhìn như người xa lạ, tái mặt chạy đi kêu má. Bướng bỉnh ương ngạnh khi ở nhà với cha.
+ Khi nhận ra cha : trằn trọc suy nghĩ khi nghe bà giải thích về vết sẹo. Lúc thấy cha chuẩn bị ra đi, khuôn mặt bé Thu nghĩ ngợi xa xăm, rồi chạy tới ôm cha thắm thiết.
- Tính cách bé Thu: Tình cảm mạnh mẽ sâu sắc, rất dứt khoát, rạch ròi. Có nét cá tính cứng cỏi đến ương ngạnh nhưng vẫn là đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí : Miêu tả diễn biến tâm lí thành công, từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nổ yêu thương do bị dồn nén. Tác giả rất am hiểu tâm lý trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Câu 3 (trang 202 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Tình cảm sâu đậm của ông Sáu đối với con : Nôn nóng gặp mặt con, khao khát được nghe tiếng gọi “Ba ơi!”, tìm kiếm kỉ vật tặng cho con.
- Nét đẹp trong tâm hồn của người cán bộ cách mạng: họ không chỉ là người thiết tha yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hi sinh cho Tổ Quốc mà còn yêu thương gia đình con cái hết mực với tình yêu vô cùng đẹp đẽ và cao thượng.
Câu 4 (trang 202 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Ngôi kể : Ngôi thứ nhất qua lời kể của nhân vật “tôi” - bạn thân ông Sáu.
- Tác dụng : Tạo tính khách quan chân thực và thể hiện quan hệ gắn bó giữa những người đồng chí trong chiến đấu.