O'Hen-ri là nhà văn Mĩ, sinh năm 1862, mất năm 1910. Thuở nhỏ, vì nhà nghèo nên ông không được học hành đến nơi đến chốn. Năm mười lăm tuổi, ông đã phải thôi học, đến phụ việc tại hiệu thuốc của người chú ruột. Thời trai trẻ, ông trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như nhân viên kế toán, thủ quỹ ngân hàng, bốc vác... O'Hen-ri sáng tác rất nhiều và phần lớn tác phẩm của ông phản ánh cuộc sống bất hạnh của tầng lớp dân nghèo. Nhiều truyện ngắn đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc, trong đó có truyện Chiếc lá cuối cùng.
Bối cảnh của truyện là ngôi nhà trọ ba tầng cũ kĩ, tồi tàn với những căn phòng cho thuê giá rẻ trong một khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn. Thời điểm xảy ra sự việc là tháng mười một, khi những cơn gió lạnh mùa đông tràn về. Hai nữ họa sĩ trẻ là Xiu và Giôn-xi thuê chung một căn phòng nhỏ trên tầng thượng sát mái. Cụ Bơ-men là một họa sĩ nghèo sống ở tầng hầm.
Giôn-xi bị sưng phổi nặng. Vì nghèo không có tiền thuốc thang nên cô buồn bã không thiết sống nữa. Mặc cho Xiu chăm sóc, động viên, Giôn-xi cứ nằm quay mặt ra phía cửa sổ, nhìn những chiếc lá thường xuân rụng dần từng chiếc một. Mỗi lần có chiếc lá rơi, cô lại cảm thấy mình gần cái chết thêm một chút. Trước khi trời tối, Giôn-xi đếm còn lại bốn chiếc lá và tự nhủ sau khi chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì mình cũng lìa đời. Nghe Xiu kể chuyện ấy, cụ Bơ-men bực mình nghĩ rằng tại sao trên đời này lại có người muốn chết chi vì một cây dây leo nào đó rụng hết lá?! Rồi Xiu đưa cụ Bơ-men lên gác... Đoạn trích này tiếp nối câu chuyện trên, kể về việc vì thương Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã thức trắng đêm để vẽ chiếc lá thường xuân lên tường. Sáng hôm sau thức giấc, Giôn-xi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng vẫn còn bám chặt vào cây. Cô như được tiếp thêm sức mạnh và thoát qua cơn hiểm nghèo. Nhưng cũng vì vẽ chiếc lá trong đêm đông giá buốt nên cụ Bơ-men đã bị cảm lạnh rồi qua đời chi sau hai ngày. Qua đoạn trích, tác giả bày tỏ thái độ trân trọng, cảm phục trước tình yêu thương chân thành và lòng vị tha cao cả của những con người nghèo khổ.
Cụ Bơ-men là một hoạ sĩ vô danh. Suốt bốn mươi năm, cụ ấp ủ ý định sẽ vẽ một bức tranh tuyệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu công việc. Giống như chị Xiu, cụ Bơ-men rất quan tâm đến tình cảnh tội nghiệp của Giôn-xi. Biết cô gái đang tuyệt vọng, muốn tìm đến cái chết để giải thoát, cụ đã nhờ chị Xiu đưa lên gác để thăm. Hai người sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì vì thấy những chiếc lá thường xuân đang theo nhau rụng, chỉ còn một vài chiếc. Có lẽ trong thâm tâm cả hai đều lo lắng cho số phận của Giôn-xi. Riêng cụ Bơ-men, chắc là cụ đang nghĩ đến cách vẽ chiếc lá cuối cùng để đem lại cho Giôn-xi niềm hi vọng.
Tình thương và lòng trắc ẩn đã khơi dậy trong tâm hồn cụ Bơ-men một ý tưởng sáng tạo tuyệt vời. Cụ lẳng lặng làm theo lời trái tim mách bảo, khỏng hé răng cho ai biết ý định của mình.
Tác giả không tiết lộ ngay việc cụ Bơ-men vẽ chiếc lá trong đêm mưa tuyết ra sao mà đợi đến những dòng cuối cùng của truyện mới cho mọi người biết qua lời của chị Xiu. Cách kể truyện như thế tạo được bất ngờ và hứng thú cho người đọc.
Chiếc lá cụ Bơ-men vẽ lên bức tường gạch đối diện với cửa sổ căn gác nhỏ của Giôn-xi đúng là một kiệt tác vì trước hết trông nó giống y như thật: Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ, khiến Giôn-xi tưởng đấy chính là chiếc lá cuối cùng. Quan trọng hơn cả là chiếc lá do cụ Bơ-men vẽ đã đem lại sự sống cho Giôn-xi. Chiếc lá không phải chỉ được vẽ bằng bút lông, bột màu, mà bằng cả tình cảm chân thành và lòng vị tha cùng đức hy sinh cao cả của cụ Bơ-men. Người hoạ sĩ già đã quên cả tuổi tác lẫn sức khỏe của mình để cố gắng nhen nhóm lại hi vọng sống trong lòng cô gái trẻ đáng thương.
Cách đây 86 năm, trên bầu trời văn học nước Mĩ, một ngôi sao sáng đã lặn. Ngôi sao ấy là O. Hen-ri. Sự ra đi của ông quả thật, đã để lại cho nhân dân nước Mĩ nhiều tiếc nuối. Thế nhưng, đúng như có người đã nói: "Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" Mặc dù ngôi sáng ấy lặn khá lâu rồi song dư quang của nó vẫn lâp lánh toả sáng trên những trang văn mà ông O. Hen-ri để lại cho đời. Sự nghiệp sáng tác của ông không đồ sộ như M.Gorđki, L.Tônxlôi nhưng hầu hết các tác phẩm mà nhà văn viết ra đều có giá trị lớn. Chiếc lá cuối cùng là một trong những tác phẩm như thế.
Tiếp xúc với thiên truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, ta sẽ được nhà văn đưa đến phía Tây công viên Oa-sinh-tơn của nước Mĩ. Đó là một địa điểm nhỏ, phố xá nhằng nhịt không có lối ra rõ ràng. Hầu như khu công viên nhỏ này bị một màn xám bao phủ, vây quanh. Nó đã làm cho cuộc sống của những con người như Xiu, Giôn-xi và bác Ba-men thiếu sinh khí: "Hãy tưởng tượng một tay thu ngàn nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nự không thu một xu nhỏ". Cách nói rất hình ảnh của tác giả đã cho ta cảm nhận được cái nghèo nàn, đạm bạc của những con người ở đây. Ở đây hầu hết là giới nghệ sĩ chung sống với nhau. Họ phải bỏ tiền ra thuê những căn phòng tối om và vẽ những bức vẽ bình thường đổ kiếm sống. Họ chăm chỉ làm ăn là thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo, thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn. Ta tưởng như họ sống trong hôm nay mà chẳng đến hết ngày mai. Những hoạ sĩ (Giôn-xi, Xiu, Bơ-men) trong ý thức họ vẫn muốn hẹn một cuộc sống tốt đẹp, một tương lai sáng lạn. Thế nhưng cơ hội lại chưa mỉm cười với họ. Thành ra họ chỉ còn biết chờ đợi với tình cảm mông lung, huyễn tưởng. Rõ ràng ta nhận thấy O. Hen-ri không thi vị hoá cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về hiện thực, tái hiện chân thực những cảnh đời đói khổ.
Nhưng, để tránh hiểu lầm, có lẽ cũng cần phải nói thêm: nhà văn phản ánh hiện thực không chỉ để phản ánh, để phơi bày hiện thực mà cái chính là qua bức ảnh chụp đó, tác giả muốn bày tỏ thái độ đối với con người. Dù chỉ là một góc phố nhỏ thôi - nhà văn cũng lách ngọn bút vào để tìm tòi khám phá. Những tâm tư, tình cảm của Bơ-men, Xiu, Giôn-xi đều được nhà văn chăm chú lắng nghe để rồi khơi lên trong lòng độc giả những tia nước nguồn thương. Nguồn thương của tác giả rung lên khi nhân vật gặp tình huống éo le. Ông tỏ ra rất quan tâm tới số phận của những con người này. Ông thương cảm cho Giôn-xi, một "phụ nữ nhỏ bé", thiếu máu vì những cơn gió hiu hiu, bị mắc chứng bệnh viêm phổi. Ông đồng tình với ước mơ chính đáng của bác Bơ-men: muốn có một kiệt tác để lại cho đời. Với Bơ-men, tác giả thấy con người này thật đáng thương. Ông đã "ngoài sáu mươi ", đã "múa cây bút vẽ bốn mươi năm" mà vẫn không "với tới được gấu áo vị nữ thần của mình". Nói chung, cuộc đời cơ cực nào cũng chiếm được trái tim nhân đạo của nhà văn. Ông đã viết về họ như viết về chính mình, cho nên dễ hiểu, dễ đọc, dễ làm xúc động lòng người. Cái dễ làm xúc động lòng người ấy không phải ngẫu nhiên mà có. Ta thấy trong thực tế, cuộc đời của tác giả cũng gặp nhiều nỗi gieo neo. Ông đã từng trải nghiệm qua rất nhiều nghề để kiếm sống, cảnh đời thật đã cho ông yêu sống phong phú. Khi viết truyện, ông đặt cái tâm nóng hồi của mình lên trang giấy. Từ bác Bơ-mcn đến Giôn-xi, Xiu, hầu hết đều có sự hoá thân của tác giả...
Cuộc sống sao mà đắng cay đến thế! Nhưng càng trong sự đắng cay, đen tối tâm hồn con người càng toả sáng và ngát hương. Nhà văn đã phát hiện ra trên đầm bùn, trên thảo nguyên hoang dại bỗng rực cháy sáng lên "ngọn lửa Đan- cô" ngọn lửa của tình thương yêu của con người với con người.
Trước hết, ông muốn bày tỏ thái độ ca ngợi về nét đẹp trung trinh của Xiu và Giôn-xi. Với ông, ở họ có một tình hạn rất đẹp đẽ, trong sáng và rất đáng trân trọng. Cuộc sống nghèo khổ, sở thích tương đồng, tình cờ đã giúp họ xích lại gần nhau. Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không lãnh đạm, không thờ ơ, không bỏ mặc bạn. Ngược lại, cô chăm nom, săn sóc Giôn-xi rất chu đáo. Cô mời bác sĩ về chữa bệnh cho bạn. Tình cảm của Xiu dành cho Giôn-xi thật là gắn bó, thật là cảm động. Nghe bác sĩ nói bệnh tình của Giôn-xi "mười phần chỉ còn hi vọng được một" thì Xiu đã vào phòng làm việc và "khóc đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản". Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của tình thương. Trái tim cô không hề "chai sạn" mà luôn rung lên những nhịp đập đớn đau khi nghĩ đến cảnh: chỉ vài ngày nữa thôi cô bé sẽ mất đi một người bạn yêu quý. Thương thì thương vậy đấy, thế nhưng cô vẫn muốn kìm nén nỗi đau, cố chạy trên thực tại phũ phàng ("thản nhiên") để Giôn-xi yên tâm. Rồi cô tỏ ra thực sự "lo lắng" khi phải chứng kiến ý nghĩ "kỳ quái" của bạn mình. Xiu luôn muốn được ở "bên cạnh" bạn để săn sóc, luôn tìm cách động viên an ủi Giôn-xi: "Ông bác sĩ đã nói với chị là em sẽ chóng hình phục thôi (...) khả năng khỏe là mười phần chắc chín". Thực ra, đây là một lời nói dối. Nhưng sự nói dối của Xiu, trong hoàn cảnh này không hề có tội. Sự nói dối của cô chẳng qua chỉ là sự bất đắc dĩ, xuất phát từ tình yêu thương bạn, muôn giúp bạn bứt lo lắng và có niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Tình yêu thương của Xiu không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn biểu lộ qua việc làm cụ thể. Cô nấu cháo cho bạn ăn. Cô dồn tâm sức để vẽ nhiều tranh ảnh để kiếm tiền chăm sóc cho Giôn-xi. Tình cảm của Xiu là tình cảm chân thành. Tình cảm ây làm ta rưng rưng cảm động. Trong thâm tâm Xiu, Giôn-xi là một người em ruột. Cô đã chăm bẵm bạn theo cấp độ tình cảm máu thịt, chân tình ấy.
Bơ-men, người hoạ sĩ già, cũng là nhân vật được tác giả Chiếc lá cuối cùng dành cho những dòng văn ưu ái, trân trọng. Như đã nói, cuộc đời ông thất bại trong nghệ thuật và nghèo khổ trong cuộc sống. Do chí riêng không thoả, cuộc sông tẻ nhạt mà ông thưc ng hay cáu gắt với mọi người. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta đã mất hết tình người. Ông tự nhận là "con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên". Khi nghe Xiu kể chuyện, Bơ-men đã quái lo: "Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn" vậy. "Lời nói của ông đích thực là một lời coi thường, một tiếng chửi. Thế nhưng trong lời chửi "độc mồm" ấy vẫn tiềm ẩn lòng thương con người "Chà, tội nghiệp cô bé Giôn-xi".
Lòng yêu thương ấy dường như là một điểm gợi hứng, là một điểm khơi nguồn để bác Bơ-men sáng tác lên một bức tranh kiệt tác? Có thể là như thế. Sự nguy kịch có liên quan đến sự sống còn của một con người dường như đã thôi thúc trái tim bác phải làn một điều gì đó để giúp họ. Và thế là trong một đêm khủng khiếp, bất chấp cả mưa gió bác Bơ-men đã âm thầm một mình cùng với chiếc đèn, chiếc thang, chiếc bút lông ngồi hí hoáy vẽ chiếc lá thường xuân. Cuối cùng với sự cố' gắng, với sức mạnh của tình yêu thương, bác đã vẽ xong bức tranh đó. Tiếc thay, khi bác hoàn thành xong tác phẩm cũng là lúc bác phải vĩnh biệt cõi đời. Sự ra đi của bác chỉ là sự ra đi của xác thịt, còn tâm hồn của bác thì chắc chắn sẽ còn kết tủa lại mãi với thời gian. Với nghị lực của mình, trái tim của mình, bác đã cho đời một kiệt tác. Kiệt tác ấy chính là kết quả của sự tích luỹ tổng hoà hơn 40 năm cầm cọ, là sự dồn tụ cao độ của cái tâm và tài trong đời nghệ sĩ. Đốn đây thì ông đã thực hiện được ước mơ, khát vọng cháy bỏng của mình từ trước. "Những rìa lá hình răng cưa đã nhuộm vàng úa" tượng trưng cho tuổi tác, sự ra đi về thân xác của Bơ-men. "Cuống lá còn giữ màu xanh sẫm", tượng trưng cho mảnh tâm hồn sáng trong của cả một đời người hoạ sĩ già tích góp được. Kiệt tác của bác có ý nghĩa lớn lao vô cùng. Nó không chỉ là sự mãn nguyện, thoả ước mơ của bác mà nó còn là bức tranh cứu người. Bức tranh đã đem lại sự sống cho Giôn-xi, đã làm cho hồn Giôn-xi sắp chết bỗng được tái sinh. Bức tranh ấy đã đem lại cho Giôn-xi niềm tin vào cuộc sống, giúp cô nhận ra ý nghĩa của đời người: "Mình đã tộ như thế nào, muôn chết là một tội". Nó chính là điểm cao trào của tình yêu thương con người. Bác Bơ-men đã hi sinh, đã trút cái sức lực còn lại của mình vì sự sống của Giôn-xi. Chiếc lá cuối cùng đúng là điểm sáng toàn truyện. Nó được vẽ giống như thật; nó đã ra đời trong một hoàn cảnh lao động vất vả, nó dũng cảm bất chấp quy luật, vươn lên tất cả để chiến thắng nghèo đói, bệnh tật. Tình người còn lớn hơn cả nghệ thuật, nó làm cho nghệ thuật trở thành sự sống bất tử. Và đó mới là tác phẩm "đáng thờ", xứng đáng tồn tại với thời gian.
Ai đó đã nói rằng: Văn học nghệ thuật của ngôn từ. Nếu không có bơi chèo nghệ thuật thì chiếc thuyền nội dung sẽ đứng im, bất động. Nó sẽ không chuyển tải đến được tâm hồn bạn đọc những bức thông điệp giá trị nhân văn.
Ở đây, tác phẩm này có giá trị nghệ thuật rất cao.
Nhà văn đã tạo nên trong tác phẩm một hơi thở riêng độc đáo. Đây là một câu chuyện giàu kịch tính. Nhà văn đã khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống, các hoàn cảnh mang tính điển hình để khắc hoạ rõ tính cách của nhân vật. Với cách tạo tình huống này, nhà văn tạo nên sự hấp dẫn ở độc giả (các nhân vật sẽ phản ứng như thế nào, giải quyết như thế nào, buộc họ phải theo dõi tiếp). Theo dõi câu chuyện, ta thấy cách giải quyết từng tình huống của nhà văn rất hợp lý: Khi Giôn-xi bị bệnh, Xiu không bàng quan mà tìm mọi cách (mời bác sĩ, bán tranh kiếm tiền) để cứu bạn; hoặc khi Giôn-xi có những ý nghĩ kỳ quái, cô tỏ ra lo lắng và cố gắng giảng giải để bạn hiểu ra sai lầm.
Câu chuyện này còn có nhiều chi tiết bất ngờ. Độc giả bị bất ngờ ngay từ lúc Giôn-xi có ý nghĩ kỳ quặc: tại sao cô lại mê tín về điều đó. Tâm trạng lo lắng (Giôn-xi sẽ chết khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống) cứ theo độc giả suốt từ đó đến kết thúc chuyện.
Đỉnh điểm của sự thắt nút là chi tiết: Chiếc lá cuối cùng. Trong vô số những chiếc lá thường xuân, vẫn còn một cái trụ lại trên cành. Mạch cảm xúc, suy đoán của người đọc bị đảo ngược: trong cảnh mưa tuyết như thế sao chiếc lá kia không rụng? Sự hồ nghi này được nhà văn cởi nút ở chi tiết cuối truyện: thì ra chiếc lá ấy chính là bức tranh mà bác Bơ-men vẽ, vẽ giống như thật, đến các nhân vật trong truyện cũng không nhận ra đó là chiếc lá giả.
Nội chừng ấy cũng đã đủ nói lên thành công to lớn của tác phẩm.
Với Chiếc lá cuối cùng, O. Hen-ri đã gởi lại cho thế hệ sau bức thông điệp viết trên màu xanh của lá cây: hãy thương yêu con người, hãy vì sự sống của con người. Đó là lẽ tồn tại cao nhất của nghệ thuật vì con người.
Nói đến văn học Mỹ, người đọc thế giới thường nhắc tới O.Henry như một trong những tác giả viết truyện ngắn có duyên nhất. Với một vốn sống phong phú, O.Henry đã sáng tác hơn 400 truyện ngắn và góp vào nền văn học Mỹ một tiếng nói rất riêng. Văn chương của O.Henry nhẹ nhàng, ngắn gọn đến mức sắc sảo. Giọng văn hài hước, dí dỏm, đôi khi giấu sau những nụ cười là một sự nghiệt ngã đến không ngờ của cuộc sống. Rất nhiều tác phẩm của O.Henri có những kết thúc bất ngờ, gây sửng sốt cho người đọc. Nhiều độc giả yêu quý nhà văn này đã rất ngạc nhiên vì một nhà văn không có học vấn cao (ông chỉ học ở một trường tư cho đến năm 15 tuổi) nhưng lại rất thành công với mảng truyện ngắn và đã đưa vào tác phẩm của mình một xã hội đa dạng và rộng lớn của nước Mỹ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Bạn có thể tìm thấy trong văn chương O.Henri những tội phạm, thế giới của người vô gia cư, cuộc sống phiêu lưu của những kẻ cao bồi hay dòng người đi tìm vàng cho đến cuộc sống giàu sang của thành phố New York... Đặc biệt, chúng ta bắt gặp trong truyện của ông một lối viết văn giàu kịch tính. ó là một chuỗi liên tiếp và sự đan cài khéo léo phức tạp các yếu tố bất ngờ mà chỉ đến câu cuối cùng của tác phẩm, cái nút ấy mới được tháo gỡ.
Tiếp xúc với thiên truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng, ta sẽ được nhà văn đưa đến phía Tây công viên Oa-sinh-tơn của nước Mĩ. Đó là một địa điểm nhỏ, phố xá nhằng nhịt không có lối ra rõ ràng. Hầu như khu công viên nhỏ này bị một màn xám bao phủ, vây quanh. Nó đã làm cho cuộc sống của những con người như Xiu, Giôn-xi và bác Ba-men thiếu sinh khí: "Hãy tưởng tượng một tay thu ngàn nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nự không thu một xu nhỏ". Cách nói rất hình ảnh của tác giả đã cho ta cảm nhận được cái nghèo nàn, đạm bạc của những con người ở đây. Ở đây hầu hết là giới nghệ sĩ chung sống với nhau. Họ phải bỏ tiền ra thuê những căn phòng tối om và vẽ những bức vẽ bình thường đổ kiếm sống. Họ chăm chỉ làm ăn là thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo, thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn. Ta tưởng như họ sống trong hôm nay mà chẳng đến hết ngày mai. Những hoạ sĩ (Giôn-xi, Xiu, Bơ-men) trong ý thức họ vẫn muốn hẹn một cuộc sống tốt đẹp, một tương lai sáng lạn. Thế nhưng cơ hội lại chưa mỉm cười với họ. Thành ra họ chỉ còn biết chờ đợi với tình cảm mông lung, huyễn tưởng. Rõ ràng ta nhận thấy O. Hen-ri không thi vị hoá cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về hiện thực, tái hiện chân thực những cảnh đời đói khổ.
Câu chuyện xoay quanh một chiếc lá có lẽ không quá nhỏ nhưng chẳng lớn lao gì mấy để cho người ta, qua một cái sân rộng chúng sáu thước có thể quan sát được dễ dàng, Đó là chiếc lá cuối cùng của "một cây leo già cỗi, tàn héo, cạn nhựa sống, rễ đầy những bướu" khẳng khiu trơ trụi bám víu vào cái cây leo gầy guộc kia được bao lâu nữa mới gánh nặng của những cơn gió bấc rét cắt ruột. . Những trận mưa đập ào ạt, dai dẳng trên của sổ, trên mái hiên những đợt tuyết rơi..? Trong thực tế, thì chỉ qua bốn ngày gần đây hằng tram chiếc lá lắt lẻo trên một dây leo héo hắt khiến tôi nghĩ đến một cuộc sống tàn lụi, mong manh, bị vùi dập phũ phàng mà gắng chịu đựng dũng cảm tồn tại.
Ở một xứ sở có hai mùa phân biệt luôn luôn luân chuyển như ở nước ta, nhất là miền Bắc, chúng ta hẳn không ngỡ ngàng gì lắm với cảnh cây thay lá mỗi khi tiết trời thay đối. Ấy thế mà Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri lại không ngớt làm tôi ngạc nhiên thích thú. Bởi đó là một truyện ngắn rất giàu kịch tính. Nó là một chuỗi liên tiếp và là sự đan cài khéo léo, phức tạp các yếu tố bất ngờ mả chỉ đến câu cuối cùng của tác phẩm, cái nút mới được thảo gỡ.
Câu chuyện xoay quanh một chiếc lá, chiếc lá có lẽ không quá nhỏ nhưng cũng chẳng lớn lao gì mấy để cho người ta, qua một cái sân rộng chừng sáu thước, có thế quan sát được dễ dàng. Đó là chiếc lá cuối cùng của "một cây leo già cỗi, tàn héo, cạn nhựa sống, rễ đầy những bướu", khẳng khiu, trơ trụi, bám hững hờ vào lưng chừng bức tường thấp phía trước mặt, qua cửa số căn phòng của đôi bạn nữ họa sĩ. Chiếc lá tội nghiệp ấy liệu còn có thể bám víu vào cái cây leo gầy guộc kia được bao lâu nữa mới gánh nặng của những cơn gió bấc rét cắt ruột, những trận mưa đập ào ạt, dai dẳng trên cửa sổ, tiên mái hiên, những đợt tuyết rơi...? Trong thực tế, thì chỉ qua ba, bốn ngày gần đây, hàng trăm chiếc lá của chính cái cây ấy đã vĩnh viễn lìa đời. Hình tượng chiếc lá lắt lẻo trên một dây leo héo hắt khiến tôi nghĩ đến một cuộc sống tàn lụi, mong manh, bị vùi dập phũ phàng mà vẫn gắng chịu đựng, dũng cảm tồn tại.
Chẳng phải là vô tình, khi chiếc lá cuối cùng ấy lọt vào mắt mọi người ở đây - nhất là Xiu lúc này đang lo lắng theo dõi cái nhìn của cô bạn gái. Vì nó gắn liền với cái cây leo thân yêu của Giôn-xi. Cũng vì nó gợi nhớ đến hiện trạng của chính Giôn-xi đang bị đánh gục bởi những ngón tay buốt giá của "gã viêm phổi".
Nó sẽ rụng. Nhưng, vào lúc nào? Sự tồn tại hay không tồn tại của nó có ý nghĩa gì đối với những người đang hằng ngày hằng giờ khắc khoải ngóng nhìn nó? Cái tất nhiên hình như đang treo lại lơ lửng đấy, hứa hẹn những điều bất ngờ khiến ta phải nín thở mà theo dõi.
Bất ngờ đã đến. Nhưng đến theo một cách khác, người dự đoán: qua một đêm mưa to gió lớn, "chiếc lá cuối cùng" vẫn còn đó, nổi bật trên tường gạch, hơn nữa, còn thấy rõ là "chỗ gần cuống lá non xanh thẫm, nhưng đường viền răng cưa xung quanh đã nhuốm màu vàng...". Hãy quan sát kĩ mà xem! Kì lạ thật, nhưng khó mà nghi ngờ. Hình ảnh hiện ra cụ thể, lặng lẽ như sự thật hiển nhiên không cần biện bạch. Hôm sau thế. Hôm sau nữa vẫn thế. Người ta buộc phải tin. Hầu như chẳng ai băn khoăn về sự tồn tại phi lí đó.
Nhưng, khi mọi tình huống căng thẳng đã dịu bớt - Giôn-xi đã thoát hiểm, bác Bơ-men đã mất sau hai ngày ốm, bất ngờ mới lại xuất hiện, bừng sáng lên và chấm dứt luôn câu chuyện. Bắt đầu từ một sự việc có vẻ chẳng liên quan gì đến chiếc lá của chúng ta: cái chết của ông già Bơ-men. Vì sao bác chết? Những thứ đồ đạc mới dùng xong, còn đế ngổn ngang, chưa kịp thu dọn, có thể gợi lên nhừng suy đoán gì? Bác đã làm những gì để đến nỗi phải ốm chết? Cái chết của bác có ý nghĩa, giá trị gì? Nhiều câu hỏi đặt ra và sẽ được trả lời đầy đủ. Chỉ biết rằng, từ cái chết của lão họa sĩ này, kết luận cuối cùng về "chiếc lá cuối cùng" kia là: đó là một chiếc lá giả, vẽ thần tình và đặt đúng chỗ đến nỗi nếu không thật tinh thì không tài nào nhận ra. Vấn đề lúc này không ở chỗ giả hay thật; mà ở chỗ: kiệt tác do con người tạo ra đã kế tục và thay thế rất có hiệu quả kiệt tác của tự nhiên. Kiệt tác ấy, bản thân nó là vô giá. Vả lại, chính nhờ nó, một con người - một tài năng nghệ thuật biết đâu - đã hồi sinh.
Con người ấy là Giôn-xi lúc này đang nằm bất động trên chiếc giường sắt quét sơn, đưa mắt qua nhừng ô cửa nhỏ nhìn sang bức tường trống. Cô gái bé nhỏ này vốn đã khô gầy, lại viêm phổi nặng, xem ra khó hề qua khói, mạng sống mười phần chưa chắc đã hi vọng được một. Đến chỗ dựa là dấu hiệu bình thường nhất của lòng yêu đời - sự quan tâm đến một người đàn ông, đến thời trang cua phụ nữ chẳng hạn - cũng lại thiếu nốt. Khát khao về nghệ thuật đối với cô bé này, chỉ nó không thôi, chưa đủ đế cân bằng với chín phần, chác chắn mà tử thần đã nắm. Ngọn lứa leo lét như đang lụi dần theo thời gian, chỉ chực bùng lên một lần chót trước khi tắt ngấm.
Giôn-xi đã bùng lên thật! Cô mở to mắt. Cô đăm đăm nhìn ra phía cửa sổ. Cô khe khẽ đếm ngược các con số - những chiếc lá còn sót lại trên cây. Với một ý thức rõ ràng, cô đang nhắm đếm những bước tiến đến cái chết đang chực sẵn. Chiếc lá cuối cùng nhất định sẽ rụng nốt. Cái chêt nhất định sẽ không thế tránh khỏi đối với Giôn-xi. Nhưng nó sẽ đến vào lúc nào? Có đúng là vào ngày "hôm nay" trước khi trời tối như phỏng đoán của Giôn-xi không? Không khí nặng nề, căng thẳng đến nỗi Xiu phải cô gắng và khéo léo làm dịu bớt.
Cái phải đến đã không chịu đến, đơn giản, chóng vánh như mọi người vẫn tưởng. Phái chăng đấy cũng có thể gọi là một bất ngờ? Dẫu sao, nó làm chùng xuống mọi căng thẳng trong Giôn-xi đến nỗi cô gái muốn rũ bò hết - kế cả sự quan tâm đến cái chết. Chính lúc đó cô thật sự chẳng còn thiết tha với cái gì nừa, cô đã được giải phóng khỏi nỗi ám ảnh về cái chết - tác động tâm lí có thế làm giảm đến năm mươi phần trăm công hiệu của thuốc men. Lại một bất ngờ nữa? Rất có thể. Cái tương quan sống - chết quá chênh lệch ban đầu, Giôn-xi dang tự điều chinh dần theo hướng tích cực mà không tự biết, đúng vào thời điểm quan trọng nhất, lúc mà mọi việc có thể hoàn toàn đảo ngược lại theo cái logic chủ quan cua cô bé họa sĩ. Cái đôi mắt mở to không hồn như bị hút vào chiếc ròm xanh che cửa sổ, có lẽ không phải chi là do ý thức.
Giôn-xi dã ngạc nhiên trước thực tế. Nhưng phải qua thời gian, qua nhiều thử thách nữa, cô mới thốt lên được cái câu nặng ý nghĩa: "Muốn chết, đó là một tội lỗi". Trờ lại với những nhu cầu cụ thể hằng ngày (muốn ăn, uống, muốn soi gương, muốn ngồi dậy xem nấu nướng...), những ước mơ, hoài bão chân chính, Giôn-xi bước một bước quyết định qua ranh giới của cái chết để bước vào lãnh địa của cái sống. Đó là điều không ai dự đoán dược, kể từ ông bác sĩ đã chẩn đoán cho Giôn-xi. Cho đến khi Giôn-xi "nằm vui vẻ đan một cái khăn quàng len để phủ lên vai, màu xanh ngắt và chẳng dùng làm gì được" thì không còn gì để có thế đánh ngã cô được nữa.
Lùi trong hậu trường, mãi gần cuối tác phẩm, ẩn sâu trong cái hang tối mờ mờ - căn gác hai của tòa nhà, là một ông già khoảng lục tuần, râu tóc bờm xờm nửa thần nửa quỷ, đang đương đầu với giá rét bằng bộc một chiếc sơ mi cũ màu xanh. Bác Bơ-men đấy! Nhà nghệ sĩ nghèo cô độc này, say nhiều hơn tính, gần hết cuộc đời chưa sáng tạo nên được một cái gì hẳn hoi. Cái khung vải căng sẵn trên giá vẽ từ hai mươi nhăm năm nay cơ hồ bị bỏ quên và chắc gì đã không khiến cho nhiều người xung quanh mỉm cười hoài nghi? Cũng may mà đối với ông già tốt bụng, người ta còn chưa nỡ giễu cợt.
Còn có gì đáng đề ý, còn có gì đáng trông đợi ở con người đáng thương này? Thậm chí cả đến lúc bác bất bình "đỏ mắt lên, giàn giụa nước mắt", hét tướng lên trước cái ý nghĩa "ngớ ngẩn" của Giôn-xi, của cả Xiu nừa, chẳng ai lấy làm lạ. Huống hồ là cái lúc bác cùng Xiu ngó ra ngoài cửa sổ, "sợ hãi nhìn cái cây leo và lặng lẽ nhìn nhau một lát"... Nhưng mọi chuyện lại bắt đầu chính từ lúc này.
Chỉ sau cái chết thảm vì bệnh viêm phổi của bác, căn cứ vào nhừng dấu tích bác còn để lại - từ chiếc đèn bão còn leo lét cháy, đến chiếc thang đã bị xê dịch, đến những chiếc bút vẽ và bảng pha màu vứt bừa bãi, người ta mới đoán ra: chính bác đã vẽ "chiếc lá cuối cùng" lên bức tường, chỗ cây leo. Chiếc lá vẽ giống hệt như thật, đặt đúng chỗ chiếc lá thực mới lìa cành. Tất cả được hoàn thành cấp tốc chỉ trong một đêm với một mình bác Bơ-men dưới ánh đèn nhập nhoạng và dưới mưa đêm lạnh thấu xương. Toàn bộ công trình dược xếp đặt tài tình đến nỗi, sáng hôm sau, con mắt cúa những nhà chuyên nghiệp như Xiu, như Giôn-xi, dù đã quan sát kĩ cũng chịu không phân biệt được. Ngay chính Xiu cũng không kịp nhớ lại để hoài nghi. Cái có bất ngờ nào thú vị hơn? Nhưng, chưa hết! Bất ngờ này mới thực là trọng đại: chiếc lá âm thầm ấy đã đảo ngược tình thế, đã cứu thoát một con người chi còn hi vọng sống có một phần mười! Quả là một kiệt tác vô song. Đấy là hiện thân nỗi khát vọng một đời của bác Bơ-men, hay đấy chính là hóa thân của bác Bơ-men? Bức vẽ chiếc lá trên tường được đánh đổi bằng cuộc sống và cái chết của lão nghệ sĩ đáng kính. Đấy là di sản vô giá kết tinh tấm lòng và tài năng, thứ nghệ thuật phục vụ thiết thực cho đời và tinh thần vị tha không gì sánh kịp của bác Bơ-men.
Truyện ngắn đầy kịch tính, chứa chan ý vị nhân văn cao cả của O Hen-ri đã đột ngột kết thúc sau khi toàn bộ sự việc đã sáng tỏ. Những dư âm của nó như còn ngân vang mãi, nâng thêm lên trong ta khát vọng không cùng sống, và sống có ích, cho người, cho đời...