Văn bản ngữ văn 11

tadiemmy

phân tích bài thơ tràng giang của huy cận

Thảo Phương
12 tháng 5 2019 lúc 11:22

I.Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm “Lời tuyệt vọng là lời ca hay nhất Tiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời” (Muytxe)

Những cảnh đẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ buồn nhất lại chạm đến tâm hồn con người một cách thấm thía nhất. Nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được Huy Cận. Nói về bài thơ buồn nhất của Thơ mới, của thơ ca không thể không có “Tràng giang”.

II.Thân bài

1.Khái quát

Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác Nội dung, nhan đề

Được chấp bút vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi Huy Cận vừa tròn 20 tuổi, “Tràng Giang” tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận.

Lê Duy từng nhận xét:

“Là tràng giang- khổ nào cũng dập dềnh sóng nước Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”

“Tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang” mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.

2. Phân tích

a) Khổ 1: Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang

Câu 1: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

Hai từ “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

Câu 2: “Con thuyền xuôi mái nước song song”:

Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định.

Câu 3: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang.

Câu 4: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả “ứng hiện” trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi. “Củi” chứ không phải hoa, bèo, gỗ, … “Củi” đi với “một” mà thêm lẻ bóng, cô đơn. “Củi” đi với “cành khô” mà càng khô khốc, tang thương. “Củi” trong “lạc mấy dòng” mà thêm bơ vơ vô định. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thực sự là một cơn sóng cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người. Từ cây cối xanh tươi trên ngàn đến cành củi khô gầy guộc là mấy lần thân phận cỏ cây khô héo, vùi dập, đổi thay để có những câu thơ “kêu giòn và lay động” như thế.

Tràng giang giờ đây kho còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cđ- đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.

b) Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông dài.

2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”

Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác...

2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”

Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút. Từng vạt nắng từ trời cao rọi xuống làm nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.

c)Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

Hai câu thơ: “Mênh mông… niềm thân mật”

Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

d) Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

2 câu đầu: không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn

Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khiến nó lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.

So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại

2 câu kết:

Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng dợn ngợp trong lòng tác giả.

Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”, với “tinh cầu giá lạnh trơ trọi giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)

3. Đánh giá

Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước. Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.

III. Kết bài

Tổng kết lại, nêu cảm nghĩ
Bình luận (0)
Bình Trần Thị
6 tháng 5 2017 lúc 22:55

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơi để lại trong long người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.

Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu tram ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu tram ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.

Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bộ:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô đinh.Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.

ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiêu không như long người mong ngóng:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thương nhớ

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô đinh, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.

Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.

ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dung rất đắc điệu:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng them sầu, them buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhì

n thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.

Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gủi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của HUy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi HIệu:

Trên sông khói sóng cho buồn long ai

Là sóng của sông hay là sóng trong long người

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh.Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.

Bình luận (0)
Chi Dương
20 tháng 5 2017 lúc 17:04

Xuân Diệu từng viết: Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm. Chính thế, trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), thơ Huy Cận là thơ của nỗi sầu. Trong thơ, Huy Cận thường nói đến thiên nhiên, miêu tả những bức tranh thiên nhiên. Nhưng nói đến thiên nhiên, chủ yếu Huy Cận nói đến nỗi sầu của mình. Bài thơ được coi là hay và tiêu biểu của Huy Cận trong tập Lửa thiêng là bài Tràng giang.

Tràng giang nghĩa là sông dài. Được biết cảm hứng của bài thơ này bắt đầu vào một buổi chiều, nhà thơ ngồi bôn bờ sông Hồng ở chỗ bến Chèm của Hà Nội bây giờ. Thật ra, Huy Cận có thể đặt tên cho bài thơ là Trường giang, theo cách đọc quen thuộc của người miền Bắc. Nhưng nhà thơ đã dùng Tràng giang, hẳn vì trong hai tiếng này, âm vang ang được nhắc lại hai lần, có giá trị biểu cảm hơn, gợi lên một ấn tượng mênh mang hơn, bâng khuâng hơn, buồn hơn. Sau nhan đề, trước khi chính thức đi vào các khô thơ Huy Cận còn viết một câu đề từ:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.

Như thế, cảm hứng của bài thơ không chỉ bắt nguồn tư một dòng sông, mà còn bắt nguồn từ dòng sông trong mối quan hệ giữa trời rộng với sông dài. Đó là bức tranh của trời đất bao la. Bài thơ này bắt đầu từ cái bao la ấy, hay nói đúng hơn, từ vị thế của con người trước cái bao la ấy.

Khổ thơ thứ nhất hầu như chỉ dành để tả dòng sông:

Song gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả Củi một cành khổ lạc mấy dòng.

Một dòng sông lặng chi có những gợn sóng rất nhỏ, nhỏ đến nỗi những lớp sóng như điệp vào nhau. Chính vì thê' mà buồn. Con sông như uế oải chảy xuôi, không có gì đê vội vàng, không có gì để náo nức. Mỗi lớp sóng là một nỗi buồn, vô vàn lớp sóng là vô vàn nỗi buồn. Dòng sông chảy ra vô tận trong cả hai chiều, nỗi buồn cứ điệp điệp trên hai chiều chảy ra vô tận. Trên dòng sông có con thuyền, nhưng con thuyền hầu như vắng sự sống, bởi con thuyền xuôi mái để cho nước cuốn trôi. Giữa thuyền và nước, chẳng có quan hệ gì với nhau dù chúng đang rất gần nhau, bởi thuyền thì xuôi mái, nước thì song song. Đã thế thuyền theo nước trôi mà trở về chôn cũ, chỉ còn nước ở lại với dòng sông, hai bên hai neo. Trên sông chỉ còn lại nỗi buồn, để rồi nỗi buồn cũng theo nước mà tỏa đi trăm ngả. Trong mấy câu thơ hình ảnh nước và thuyền thật đơn độc, lạc lõng, từ đó nỗi buồn nổi lên. Hình ánh mà câu thơ cuối tạo nôn thật đẩy ấn tượng Củi một cành khô lạc mấy dòng. Hình ảnh một cành cây bị bứt khỏi rừng rồi bị trôi dạt trên sóng, tự nó đã gợi lên nhiều cảm xúc về nỗi lạc loài. Cành cây trôi dạt trong câu thơ của Huy Cận còn là một cành khô, một cành củi, ấn tượng lạc loài mà nó tạo nên thật là sâu thẳm. Đã thế, củi chỉ có một cành, một cành khô mà lạc đến mấy dòng. Hình ảnh tưởng chừng vô lí

nhưng không khiến ta cảm thây vô lí, mà chỉ thấy xót thương cho một cái gì đã lưu lạc, trôi nổi, còn phải chịu lắm dập vùi. Nghe nói Huy Cận đã mấy lần sửa đi sửa lại câu thơ này để cuối cùng có được hình ảnh Củi một cành khô lạc mấy dòng như thế’.

Từ cảnh trên sông, sang khổ thơ thứ hai, Huy Cận chuyển cái nhìn của mình khỏi dòng sông để hướng về phía bên kia sông. Có lẽ, nhà thơ muôn tìm một cái gì đó bớt đơn độc hơn, bớt buồn hơn, bớt phẳng lặng và đơn điệu hơn. Nhà thơ nhìn thây:

Lơ thơ cồn nhỏ gió dìu hiu,

Dâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Quả là cảnh có thay đổi, đường nét, hình dáng có thay đối, nhưng sự phẳng lặng thì vẫn thố, cái hoang vắng, cái buồn thì vẫn thế. Thay vào dòng sông phẳng lặng, chỉ có lơ thơ cồn nhỏ, thay vào những lớp sóng buồn điệp diệp chỉ có gió đìu hiu. Chỉ có thiên nhiên, cái xao động rất nhẹ của thiên nhiên. Không có con người, không có cái xôn xao của cuộc sống. Lắng nghe cho kĩ, hình như có những âm thanh của cuộc sống vẳng lại. Nhưng đó là những âm thanh mơ hồ vẳng lại từ một làng xa, lại là âm thanh của một phiên chợ chiều đang tan. Cảnh chợ chiều xưa naỵ không phải là để gợi nên niềm vui, huống chi là một chợ chiều đang tan. Ở đây, nhà thơ không nhìn thấy cảnh ấy, mà chỉ nghe thấy tiếng. Tiếng vãn chợ chiều rồi cũng sẽ tan đi, nhường lại buổi chiều cho không gian tĩnh mịch. Buổi chợ chiều đã vãn, chiều đã xuống, ánh sáng mặt trời nhạt nhòa hơn:

Nấng xuống, trời lên sâu chót vót.

Có hai điều đang phát triển trái chiều nhau, nắng xuống thì trời lên, lên mãi cho đến độ sâu chót vót. Huy Cận đã có một kết hợp từ hầu như không chính xác: sâu chót vót. Người ta chỉ nói cao chót vót, không ai nói sâu chót vót như vậy. Trong chiều cao của bầu trời, Huy Cận đã nghĩ đến chiều sâu của không gian, trời càng cao thì càng sâu thăm thẳm. Rõ ràng, trước bóng chiều đang xuống nhanh nhà thơ đã cảm nhận một cách sâu sắc con người trơ trọi giữa không gian mênh mông, vô tận trôn cả ba chiều. Trước cái mênh mông ấy, con người và những gì thuộc về con người thật là bé bỏng, đơn độc, tội nghiệp:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Con sông càng dài, bầu trời càng rộng, cái bôn đò càng nhỏ nhoi hoang vắng. Từ bờ sông, sang khổ thơ thứ ba, nhà thơ lại trở về với dòng sông. Lúc này, thuyền đã về, nước đã lại, cành củi lạc mây dòng cũng đã trôi đi, thay vào đó là những nét khác:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyên dò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trong cuộc sống của người Việt Nam, hình ảnh cánh bèo mặt nước

bao giờ cũng gợi lên một cảm nhận về sự trôi nổi vô định, về những mảnh đời lạc loài, tội nghiệp. Trong câu thơ của Huy Cận, hình ảnh ấy lại chồng chất mấy tầng. Không phải một cánh bèo, không phải khóm bèo, hay một đám, một vạt bèo mà là hàng nối hàng. Đã bèo dạt, lại hỏi về đâu, lại còn hàng nối hàng. Câu thơ của Huy Cận đậm đặc nỗi xót thương và cảm nhận về cảnh lạc loài. Trước cảnh lạc loài, con người muôn tìm một nơi bấu víu, một cảm giác về sự gần gũi, về sự giao tiếp, nhưng tất cả đã không còn. Không một chuyến đò ngang, không một chiếc cầu, nghĩa là không có sự giao lưu nào, sự giao cảm quen thuộc nào, chỉ có sự cô đơn mà thôi, chỉ có cảnh vật trải ra mênh mang:

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cảnh trong câu thơ không phải là không đẹp, nhưng sao mà đơn điệu thê, lặng lẽ đến thê', xa xôi và buồn đến thế! Bóng chiều đô xuống cùng với khổ thơ thứ tư:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dạn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Chiều càng xuống, mây càng giăng đầy trên núi cao. Mây không phải là giăng, hay lên, hay bay mà lại mây đùn, nghe uế oải và buồn bã. Chiều về, một cánh chim nghiêng xuống giữa trời. Trong cái phút nhìn thây cánh chim xuống ây, Huy Cận có cảm giác như bóng chiều cũng nghiêng đổ xuống theo. Từ sa trong mấy tiếng bóng chiều sa gợi ấn tượng rất mạnh: bóng chiều như một cái gì đó rất cụ thể có hình khối bông đột ngột rớt xuống từ trời cao. Đến lúc này thì con người hoàn toàn thấm thía nổi buồn, đã trọn vẹn cảm nhận nỗi cô đơn của mình:

Lòng quê dạn dạn vời con nước.

“Lòng quê” ý nói là nỗi nhớ quê. Trong những phút giây này, nhìn vút theo dòng sông, tác giả nhận ra rằng, cũng như những lớp sóng đang dợndạn trên mặt sông, nỗi nhớ quê cũng dợn dợn nối lên trong tâm hồn mình, không mãnh liệt nhưng xao xuyến và mênh mang. Lúc ấy, nỗi nhớ nhà bỗng ập đến, không chờ phải có khói hoàng hôn khơi gợi. Tại sao Huy Cận lại nhắc đến khói hoàng hôn ở đây? Gần 15 thế kỉ trước, nhà thơ Đường nổi tiếng Thôi Hiệu trong bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc lâu có hai câu kết:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Tản Đà dịch:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Thôi Hiệu vì nhìn thấy khói sóng trên sông trong một buổi hoàng hôn mà chạnh nhớ quê hương. Trong buổi hoàng hôn này, đứng trước dòng sông dài, không cần có khói mà cũng nhớ nhà. Bởi vì sao? Vì cảm thấy cô đơn! Trước buổi chiều, vắng lặng như buổi chiều hôm nay, trước dòng sông mênh mang như dòng sông này, một không gian ba chiều vô tận

như không gian này, con người sao mà nhỏ bé, sao mà đơn độc thế. Con người cảm thấy thật cần một cái gì thân thuộc với mình để chia sẻ bớt nỗi cô đơn. Nỗi nhớ nhà đã dâng lên là vì vậy. Trong nỗi cô đơn của Huy Cận, nỗi nhớ nhà của Huy Cận, ta nhận ra tâm trạng bơ vơ, bơ vơ đến tột độ của cả một thế hệ.

Tràng giang của Huy Cận có vẻ như là một bài thơ tả cảnh. Thế nhưng người đọc thơ, qua cảnh ấy lại chủ yếu nhận ra tâm trạng, một nỗi buồn mênh mông, một nỗi cô đơn mênh mông. Đó là nỗi cô đơn của cả một thế hệ vừa nhận ra cái tôi của mình, một cái tôi cô đơn, trước một cuộc đời vừa mênh mông, lại vừa bế tắc. Đọc Tràng giang, người đọc vừa rung động bởi cái đẹp, vừa thấm thìa với nỗi buồn. Bài thơ, vì thế đã và sẽ sông lâu trong thơ Việt Nam.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Phạm Hà Duy
Xem chi tiết
Lê Thanh Phương
Xem chi tiết
Trần Thị Dung
Xem chi tiết
Ngô Võ Kim Cương
Xem chi tiết
THỊ THU THỦY NGUYỄN
Xem chi tiết
Trần Linh
Xem chi tiết
quyết
Xem chi tiết
Đinh Xuân Đạt
Xem chi tiết
Thu Minh
Xem chi tiết