I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Có thể hình dung bố cục của truyện Chuyện người con gái Nam Xương thành ba phần. Phần thứ nhất (từ đầu cho đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”) kể về cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh, biến cố chia li và phẩm hạnh của Vũ Nương khi chồng đi chiến trận. Phần thứ hai (từ “Qua năm sau, giặc ngoan cố” cho đến “nhưng việc trót đã qua rồi!”) kể về nỗi oan khuất và cái chết thương tâm của Vũ Nương. Phần cuối (từ “Cùng làng với nàng” cho đến hết) kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động của Linh Phi vợ vua biển Nam Hải và việc Vũ Nương được giải oan.
2. Vũ Nương là nhân vật trung tâm của truyện. Để khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, tác giả đã đặt nhân vật này vào những hoàn cảnh khác nhau để miêu tả.
Trước hết, tác giả đặt nhân vật vào mối quan hệ vợ chồng trong cuộc sống hằng ngày: “Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.”; trong hoàn cảnh này, Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà.”.
Tiếp đến, tác giả đặt Vũ Nương vào trong tình huống chia li để nhân vật này bộc lộ tình nghĩa thắm thiết của mình với chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.”.
Hoàn cảnh thứ ba: xa chồng, nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già; trong hoàn cảnh này, Vũ Nương là một người vợ thuỷ chung, yêu chồng tha thiết: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”, một người mẹ hiền, dâu thảo, ân cần, hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”.
Một hoàn cảnh quan trọng khác, đó là tình huống Vũ Nương bị chồng nghi oan. Trong tình huống này, khí tiết, phẩm hạnh của Vũ Nương được bộc lộ một cách rõ nét. Chú ý phân tích các lời thoại của Vũ Nương với chồng và lời nói trước khi tự vẫn để thấy được tính cách tốt đẹp của nhân vật này. Qua những lời tự minh oan cho mình, thuyết phục chồng, lời than thở đau đớn vì oan nghiệt, Vũ Nương đã bộc lộ khao khát về tình yêu, hạnh phúc gia đình như thế nào? Tại sao Vũ Nương lại phải trẫm mình tự vẫn? Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ này ra sao?
Tóm lại, bằng cách đặt nhân vật vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau, tác giả đã khắc hoạ đậm nét một nhân vật Vũ Nương hiền thục, một người vợ thuỷ chung, yêu thương chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì cha mẹ, gia đình, đồng thời cũng là người phụ nữ coi trọng danh dự, phẩm hạnh, quyết bảo vệ sự trong sạch của mình.
3. Tác giả đã xây dựng nhân vật Trương Sinh với tính cách rõ nét: “đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.”, nghe lời con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.”, hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Chính Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương đến tình cảnh bi kịch, không lối thoát và phải chọn cái chết để giải thoát. Qua đây cũng thấy được thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, họ không được làm chủ cuộc sống của mình, luôn luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng.
4. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn trong kho tàng truyện cổ tích (Vợ chàng Trương), tác giả đã sáng tạo lại, sắp xếp, đưa thêm những yếu tố mới để câu chuyện trở nên hấp dẫn, đầy tính bất ngờ, mang ý nghĩa mới sâu sắc. Tác giả đã dẫn dắt câu chuyện có mở đầu, diễn biến, cao trào, thắt nút, cởi nút, kết thúc, kết hợp với nghệ thuật xây dựng lời thoại nhân vật sinh động, giàu kịch tính và lời dẫn chuyện giàu tính biểu cảm. Trong đó, các đoạn đối thoại, độc thoại của nhân vật có một vai trò hết sức quan trọng, chứng tỏ nghệ thuật dựng truyện đặc sắc của tác giả. Chú ý các lời thoại:
- Lời của Vũ Nương nói với Trương Sinh khi từ biệt;
- Lời của mẹ Trương Sinh nói với Vũ Nương;
- Đoạn đối thoại giữa hai cha con Trương Sinh;
- Ba lời thoại của Vũ Nương khi bị nghi oan.
Phân tích các lời thoại để thấy được tác dụng của chúng trong việc thể hiện tính cách nhân vật, diễn biến tâm lí nhân vật, tạo kịch tính cho câu chuyện.
5. Truyền kì được hiểu là những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì có một vai trò rất quan trọng. Nó khiến câu chuyện được kể trở nên lung linh, hư ảo. Chẳng hạn: chuyện nằm mộng của Phan Lang, Chuyện Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi,… chuyện lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”. Đó là đặc điểm chung của thể loại truyền kì trung đại. Hơn nữa, Nguyễn Dữ đã sử dụng cách đưa yếu tố truyền kì vào câu chuyện kết hợp với các yếu tố tả thực để tạo hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyện (các yếu tố tả thực: địa danh, thời điểm lịch sử, sự kiện lịch sử, miêu tả chân dung nhân vật, khung cảnh…). Ngoài ra, sự có mặt của các yếu tố kì ảo đã tạo ra một thế giới ước mơ, khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bác ái.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Đây là truyện có dạng truyền kỳ: các yếu tố hiện thực đan xen với những yếu tố kì ảo tạo nên sự hấp dẫn đối với bạn đọc. Chủ đề của truyện cũng khá rõ ràng: đề cao, ca ngợi phẩm hạnh của người phụ nữ, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận bất hạnh của họ dưới chế độ phong kiến.
Có thể tạm chia truyện thành hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử:
Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan. Vũ Nương tự vẫn.
Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan được giải, Vũ Nương được cứu sống nhưng vẫn không trở về đoàn tụ cùng gia đình.
Cách đọc:
Đọc chậm rãi, rõ ràng, đặc biệt lưu ý các câu đối thoại:
- Giọng đứa trẻ: ngây thơ, hồn nhiên khi nói chuyện với bố.
- Giọng người chồng: tức giận khi nghi kị ghen tuông; khi nài nỉ, van xin khi xót xa hối hận.
- Giọng Vũ Nương: khi bị chồng nghi oan thì đau khổ, khi trò chuyện với Phan Lang thì ngậm ngùi nhưng khi từ chối đoàn tụ thì cương quyết.
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông sống ở thế kỷ XVI trong hoàn cảnh loạn lạc của chế độ phong kiến suy tàn. Các tập đoàn cầm quyền tranh giành chém giết nhau kéo dài. Chán nản trước thực tế trên, Nguyễn Dữ đã xin thôi làm quan, về ẩn cư và sáng tác. Truyền kì mạn lục (ghi chép những chuyện lạ) là một tập truyện viết bằng chữ Hán, theo lối văn xuôi cổ, có nhiều câu biền ngẫu. Tuy tác giả có khiêm tốn nói là “lục” nghĩa là sao chép nhưng thật ra ông đã lấy hướng ta những sự tích có sẵn mà viết lại thành một tác phẩm có giá trị văn chương thì có gọi đó là một sáng tác cũng không có gì là không xác đáng. Chuyện người con gái Nam Xương là thiên 16 trong 20 truyện của Truyện kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ tái tạo truyện này trên cơ sở một truyện cổ tích của Việt Nam. II. Đọc – hiểu văn bản Câu 1. a. Đại ý: Câu chuyện của người phụ nữ đức hạnh: “đẹp nết, đẹp người” lẽ ra phải được hạnh phúc nhưng trái lại, bị oan khuất phũ phàng đành phải mượn làn nước bạc chứng minh cho sự trong trắng của mình. b. Bố cục: truyện có thể chia thành ba đoạn. - Đoạn 1: Từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Hoàn cảnh xa cách chồng vì chiến tranh của Vũ Nương và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách. - Đoạn 2: “Qua năm sau… nhưng việc trót đã qua rồi”. Nỗi oan uất về cái chết bi thảm của người con gái Nam Xương. - Đoạn 3: phần còn lại. Ở chốn làng mây cung nước, Vũ Nương ao ước được quay về để giải nỗi oan. Câu 2. Về nhân vật Vũ Nương Thông qua nhân vật Vũ Nương, độc giả thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính của truyện là Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, là một người phụ nữ tính tình “thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp” lấy phải chàng họ Trương con nhà hào phóng nhưng vô học lại có tính đa nghi. Trong cuộc sống thường nhật, trước tính hay ghen của Trương Sinh, Vũ Nương “giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để vợ chồng phải đến thất hòa”. Tình cảm chung thủy gắn bó với chồng còn được thể hiện trong lời dặn dò đầy tình nghĩa của nàng lúc tiễn chồng đi lính: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yêu là đủ rồi…”. Những lời nói ân tình đằm thắm của Vũ Nương đã làm mọi người đều ứa hai hàng lệ. Khi xa chồng, Vũ Nương thủy chung buồn nhớ dài theo năm tháng. Nàng là mẹ hiền dâu thảo, một mình vừa dưỡng nuôi con nhỏ, vừa tận tâm chăm sóc mẹ chồng những khi đau yếu đã “hết sức thuốc thang lễ bái thần Phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Nàng “hết sức thương xót” khi mẹ chàng mất “việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Khi bị chồng ngờ oan, Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liệu tường hoa chưa hề bén gót” nhưng chồng vẫn không tin. Vũ Nương đau đớn thất vọng khi không hiểu vì sao lại bị đối xử bất công bị “mắng nhiếc… và đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng”. Trước tình cảnh “bình rơi tram gãy” “sen rũ liễu tàn”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn thể làm được nữa, Vũ Nương thất vọng đến tột cùng. Không còn cách nào khác, nàng phải đành mượn dòng nước con sông quê hương để giải tỏ tấm lòng trong trắng của mình. Vũ Nương “tắm gội cho sạch ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời” than thở rồi “gieo mình xuống sông mà chết”. Lời than thở của nàng như thể một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất và tấm lòng tiết sạch giá trong của mình. Có thể nói những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương được tác giả khắc họa một cách cụ thể sinh động thông qua từng việc làm, lời cụ thể của nàng. Một người xinh đẹp nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vác, hiếu thảo, thủy chung như thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Câu 3. Về nhân vật Trương Sinh Nhà có của, Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về. Sau này, chính Vũ Nương cũng nhắc lại ý đó: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Như vậy, ngoài vị trí người chồng trong xã hội phong kiến phụ quyền, Trương Sinh còn cộng thêm cái vị thế của sự cách bức giàu nghèo. Đã thế, người đàn ông này lại “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Đây là hai chi tiết tác giả đưa ra nhằm chuẩn bị cho hành động thắt nút cho câu chuyện giàu kịch tính này. Rời quân ngũ về tới nhà, tâm trạng của Trương Sinh không yên ổn “được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói” chàng bộc lộ điều này khi dỗ dành con: “Nín đi con, đừng khóc cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Chính trong tâm trạng nặng nề vừa nói, lời ngây ngô của con trẻ còn kích động tính đa nghi ghen tuông quá sức của Trương Sinh. Đứa trẻ thoạt đầu ngạc nhiên: “Thế ông cũng là cha tôi ư?”. Rồi nó tiết lộ thêm về người cha mà nó đã có: “Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Trương Sinh gạn hỏi, đứa trẻ nói thêm: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tuy đứa trẻ nói rất thật nhưng những chi tiết ấy cộng thêm tính hay ghen tuông lại đang có tâm trạng nặng nề nên Trương Sinh đã “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ càng sâu không có gì gỡ ra được”. Đúng là như kể chuyện tác giả rất chú ý đến quá trình tâm lí của nhân vật. Điều đáng trách Trương Sinh hơn cả là lối xử sự hồ đồ, độc đoán, chủ quan, thiếu bình tâm suy xét, phán đoán, khư khư gạt bỏ ngoài tai mọi lời phân trần của vợ và không đếm xỉa đến mọi lời lẽ bênh vực và biện bạch của họ hàng làng xóm. Chàng cũng chẳng chịu cho biết nguyên cớ để vợ mình có cơ hội nói rõ trắng đen mọi việc hòng minh oan cho mình. Chính vì vậy nút oan nghiệt đã thắt ngày một chặt thêm và kịch tính của câu chuyện này cũng tăng cao. Trương Sinh đã mắng nhiếc, đánh đuổi vợ. Hành động vũ phu, thô bạo của chàng đã dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Cái chết của Vũ Nương chính là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, thô bạo, vũ phu của đàn ông và luật lệ của chế độ phong kiến đã nuôi dưỡng và dung túng cho sự độc ác đen tối. Câu 4. Về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả và giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại. a. Về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả. Nguyễn Dữ đã lấy tích truyện từ cổ tíc nhưng ông đã tái tạo để truyền kì của ông trở thành một sáng tác văn học đích thực. Trước hết, nhà văn đã chú trọng đến khắc họa tâm lí nhân vật. Vũ Nương trong truyền kì mạn lục của ông đẹp hơn. Còn Trương Sinh thì thụ động hơn, thiếu bản lĩnh hơn và đối với vợ nhạt tình hơn so với truyện dân gian. Nguyễn Dữ cũng đã sắp xếp lại và thêm bớt một số tình tiết: thêm chi tiết Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ làm cho cuộc hôn nhân của hai người trở nên có tính chất mua bán. Tuy tâm lí Vũ Nương vì thế có chút mặc cảm, tự thấy mình yếu thế: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Tác giả thêm chi tiết lời trăng trối của bà mẹ chồng để khẳng định nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với nhà chồng, rồi những lời phân trần giãi bày của nàng khi bị ngờ oan và nhất là hành động hết sức bình tĩnh và quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết, mượn nước sông quê rửa sạch nỗi oan khuất của mình. Thêm nữa là lời ngây thơ của đứa trẻ ngày một kích động tính ghen tuông của Trương Sinh từng chi tiết làm cho nút thắt ngày một chặt hơn để cuối cùng sự thật phải bày tỏ rõ sau khi Vũ Nương không còn nữa. Nhờ đó truyện của tác giả trở nên giàu kịch tính hơn đặc biệt gợi cảm hơn. b. Giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có những đoạn đối thoại và lời tự bạch của nhân vật được xếp đặt thật xác hợp làm cho câu chuyện tăng thêm phần sinh động, góp phần đáng kể vào việc khắc họa tâm lí và tính cách các nhân vật. Qua lời thoại ta hiểu được đôi nét tâm lí và tính cách của nhân vật ấy. Chẳng hạn lời thoại của bà mẹ Trương Sin cho thấy bà là một con người nhân hậu nếm trải nhiều. Lời của Vũ Nương thì lúc nào cũng mềm mỏng, dịu dàng, thuần hậu, nết na, có lí, có tình. Câu 5. Những yếu tố truyền kì được đưa vào truyện Đó chính là đoạn kết có hậu mà tác giả đã thêm vào truyện dân gian. Những tình tiết kì ảo đó là: Phan Lang nằm mộng, thả con rùa mai xanh; Phan Lang chạy trốn giặc Minh lạc vào động rùa của Linh Phi, con rùa xưa cứu sống, được đãi tiệc. Trong buổi tiệc ấy, Phan Lang được gặp Vũ Nương vốn người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi đưa về dương thế. Và hình ảnh cuối cùng: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, võng lọng rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện… Rồi trong chốc lát bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Đây cũng chính là những chuyện huyền ảo kì lạ, không có thực nhưng tác giả đưa vào tạo ra một thế giới lung linh hấp dẫn. Các yếu tố kì ảo vừa nói được nhà văn gắn với những sự kiện có thực và sử dụng những chi tiết thực để cấu tạo nên như các địa danh bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng. Như thời điểm lịch sử (Trần Thiêm Bình), sự kiện lịch sử “quân Minh xâm lược, nhiều người chạy trốn ra bể, bị đắm thuyền”. Như những chi tiết thực về trang phục lộng lẫy của các gái đẹp và trong đó chỉ có một người “mặt chỉ hơi điểm qua chút phấn son”. Như nhà cửa vườn tược của Vũ Nương hoang rậm, mồ mà, cỏ gai rợp mắt. Kết gắn những chi tiết có thực này với các chi tiết huyền ảo tác giả nhằm tăng độ tin cậy, tạo cảm giác thực cho các tình tiết truyện. Tạo những yếu tố truyền kì này, tác giả nhằm tạo nên một kết thúc có hậu. Ông muốn hoàn chỉnh thêm những nét đẹp của Vũ Nương. Tuy đã sang thế giới khác nhưng nàng vẫn không quên chồng con, phần mộ ông bà tổ tiên và nhất là vẫn khát khao được khôi phục danh dự. Kết thúc có hậu cho tác phẩm như thế cũng là thể hiện ước mơ nghìn đời của nhân dân ta về sự công bằng ở đó. Nghĩa là người ngay, người tốt dù gặp hoạn nạn, oan khuất nhưng cuối cùng sẽ được đền đáp, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng. Tác giả sắp đặt cho Vũ Nương, con người chịu oan khuất trở lại dương thế uy nghi rực rỡ nhưng cũng chỉ thấy thoáng lúc tỏ lúc mờ khi ẩn thi hiện nói lời từ tạ chồng thật ngậm ngùi: “Đa tạo tình chàng, thiếp chẳng thể ở nhân gian được nữa” và rồi chỉ “trong chốc lát bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến mất”. Đó chỉ là niềm cảm thương của tác giả đối với bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.
Có 2 bài đó, bn tham khảo, chọn lọc ý và viết thành bài hoàn chỉnh nhé!!!