Bây giờ thời thể biến thiên
Nhà vua không lấy Trạng Nguyên nữa rồi
Mực tàu, giấy bản là thôi
Nước non đã hết những người áo xanh
(Nguyễn Bính)
Viết về thời thế biến thiên khiến những nhà nho cũ trở thành người sinh bất phùng thời, Vũ Đình Liên đã có một thi phẩm được coi là kiệt tác sinh ra từ hai nguồn thi cảm lòng thương người và tình hoài cổ. Đó là bài thơ Ông đồ mà linh hồn của bài thơ chính là hình ảnh ông đồ một di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn.
Trong xã hội xưa, ông đồ là người có đi học chữ Nho song không đỗ đạt, sống thanh bần giữa những người dân thường bằng nghề dạy học. Chữ nghĩa thánh hiền và nghề dạy học trong xã hội tôn sư trọng đạo được mọi người kính nể. Theo phong tục, ngày tết đến mọi nhà lại sắm câu đối hoặc một đôi chữ nho để trang hoàng nhà cửa, khi đó ông đồ lại có dịp trổ tài. Chính vì thế mỗi năm tết đến, xuân về, hình ảnh ông đồ cùng với nét chữ của ông trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong bức tranh xuân của mọi gia đình Việt nam.
Bài thơ ngũ ngôn gồm có năm khổ thơ khắc họa trọn vẹn một chính thể nghệ thuật: hình ảnh ông đồ cùng thời gian. Lời thơ không cầu kỳ đẽo gọt, từng dòng, từng chữ thong thả, thầm lặng như hoa quỳnh nở, uốn cong xòe ra tỏa hương buồn.
Mở đầu bài thơ là nhịp đời chảy trôi, miên viễn, tự nhiên, cứ thế mà trở thành điệu sống mỗi năm, lại thấy:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ồng đổ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Nhà thơ không nói tết đến, xuân về mà nói hoa đào nở bởi đó là tín hiệu của mùa xuân. Câu thơ chỉ kể chứ không tả nhưng người đọc vẫn hình dung sắc hoa đào tươi thắm, mênh mang tạo nên, phông nền của bức tranh xuân. Đất trời thiên nhiên như tái sinh từ một sắc hoa đào chúm chím, nở môi hồng.
Tết đến, xuân về, đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa trong mỗi gia đình Việt Nam xưa:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Hình ảnh ông đồ già xuất hiện cùng với mực tàu, giấy đỏ, nơi phố đông người qua dường như không có gì lạ.
Đến khổ thơ thứ hai, âm điệu câu thơ dường như sôi nổi hơn, giống như tiếng reo vui của nhà thơ, xốn xang, tự hào cho một mỹ tục được bảo tồn, tinh hoa được ngưỡng mộ, tài năng thư pháp được tôn vinh:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay "
Ông đồ, hình tượng trung tâm của bức tranh xuân, linh hồn của không gian mùa xuân. Màu sắc ánh sáng của hoa đào, lòng ngưỡng mộ của bao nhiêu người đều hướng về ông. Quanh ông là bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài. Câu thơ như tiếng reo trầm trồ, thích thú thán phục của bao nhiêu tức là rất nhiều người trước tài viết chữ của ông. Hai câu thơ:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Có thể coi là hai câu thơ đẹp nhất, giàu giá trị tạo hình nhất để nói đến tài hoa của ông đồ. Chữ hoa đào ở khổ thơ thứ nhất đến đây đã nhường chỗ cho hoa tay đặc tả tài năng nghệ sĩ của ông đồ. Từ bàn tay của ông, nét chữ vuông vắn, tươi tắn như hoa mùa xuân thể hiện hoài bão của con người như nhảy nhót, múa lượn. Hai động từ múa và bay gắn liền với những gì được coi là linh thiêng trong tiềm thức của người xưa: phượng, rồng đã cho ta thấy rõ nét chữ phóng khoáng từ tay người như có phép tiên đang thêu dệt gấm hoa làm nên một nét đẹp văn hoá trong truyền thông của dân tộc.
Ông đồ, không chỉ là người viết chữ, mà là người nghệ sĩ đang sáng tạo ra cái đẹp trước lòng ngưỡng mộ của mọi người. Bức tranh xuân năm ấy sao rực rỡ, tươi thắm. Ông chính là nét đẹp lung linh hội tụ ánh sáng, màu sắc, âm thanh rộn rã của mùa xuân. Ngòi bút của Vũ Đình Liên dường như cũng reo cười cùng với nhà nghệ sỹ: ông đồ. Đó là thời kỳ đắc ý nhất của ông. Dường như giữa nhà thơ và ông đồ có một mối tương giao tri kỷ. Phải chăng họ là những người cùng hội, cùng thuyền, là con của những nhà nho cũ.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiến sầu.
Từ nhưng đặt đầu câu thơ đầy tâm trạng. Chữ nhưng hàm chứa cái ngơ ngác, thẫn thờ đến sửng sốt vì một sự thật đau lòng, một tình thế đã bị đảo ngược : từ phố đông người qua giờ đã là mỗi năm mỗi vắng, đông giờ đã vắng. Những người quen thuộc ngày nào, mến mộ ông, giờ đã trở thành người xa lạ. Cụm từ mỗi năm mỗi vắng diễn tả một sự thật nhói buốt diễn ra từ từ, dần dần, đầu tiên là bao nhiêu người thuê viết, sau mỗi năm mỗi vắng để câu thơ thứ hai buông xuống là một câu hỏi tu từ như lời gọi da diết :
Người thuê viết nay đâu?.
Câu thơ giống như câu hỏi không lời đáp chìm vào trống vắng, lặng yên đến nao lòng. Câu thơ viết về thảm cảnh của ông đồ mà như chính niềm ngóng vọng day dứt của nhà thơ.
Hai câu kết của khổ thơ thứ ba rơi xuống như tiếng nấc thầm:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiến sầu.
Như ở trên đã nói, giấy đỏ y nghiến mực là hành trang gắn liền với kẻ sĩ ngày xưa, để từ đó họ gửi gắm cái hoài bão của một đời người qua nét chữ tượng hình đó. Ông đồ cũng vậy, nhưng xót xa thay vì không có người thuê viết, nỗi buồn vắng khách của ông đồ đã chiếu lên nghiên mực, phủ mờ giấy đỏ khiến giấy đỏ buồn không thắm, còn mực không được chiếc bút lông chấm vào nên đọng lại như giọt lệ khóc.
Buồn sầu vốn là tâm trạng của con người nhưng ở đây với thủ pháp nhân hóa, nhà thơ khiến cho giấy đỏ và nghiên mực cũng trĩu nặng nỗi buồn sầu của con người. Nỗi buồn sầu của con người đã thấm cả vào những vật vô tri. Hai thanh nặng mực, đọng kết hợp với thanh bằng sầu cuối câu thơ kéo âm diệu câu thơ chùng xuống, với nỗi sầu mênh mang, lan tỏa.
Hai câu thơ cực tả nỗi buồn trĩu nặng của ông đồ, tủi hổ, bẽ bàng cho thân phận, cho chữ nghĩa thánh hiền đang bị lụi tàn dần đi trong xã hội. Nhưng cũng như đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, ông đồ vẫn ngồi đấy y tức là ông vẫn kiên gan, vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với đời, đau xót thay, thực tế lại là:
… Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trẽn giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Người qua đường vẫn tấp nập nhưng chẳng ai đoái hoài gì đến ông, người đời đã lãng quên ông. Trước kia người ta xúm xít chen nhau để ngắm nghía nét chữ như phượng múa rồng bay và tấm tắc ngợi khen tài của ông, thì nay người ta dửng dưng lạnh nhạt, vô tình đi qua để rồi họ hồ hởi, vồ vập với thứ văn minh lạnh lùng kiểu đô thị hóa.
Trước đây ông là trung tâm của sự chú ý, là niềm khát khao, ngưỡng vọng của mọi người nhưng giờ đây điều đó chỉ còn là hoài niệm. Ông đã trở thành người sinh bất phùng thời.
Hình ảnh ông đã trở nên trơ trọi, lạc lõng, tội nghiệp biết bao! Ông vẫn lặng lẽ ngồi đấy mà trong ông đang là một tấn bi kịch, một sự sụp đổ. Trời đất cũng thảm đạm như lòng ông:
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Bức tranh xuân giờ đây sao u ám, thảm đạm, rũ buồn. Lá vàng rơi là tín hiệu của mùa thu mà ở đây lại đâm ngang như một vết cắt nhói lòng giữa trời xuân. Mùa xuân, nơi khởi đầu của sức sống, mà lại xuất hiện lá vàng rơi. Lá vàng rơi gợi sự tàn phai, rơi rụng, có gì đang để vỡ trong lòng ông. Phải chăng lá vàng rơi ấy báo hiệu cái chết của một thời, cái chết của một lớp người, cái chết của một mĩ tục đã lùi xa.
Nhưng lá vàng rơi trên giấy, hiện thực thật đau lòng. Những tờ giấy đỏ của ông đồ cứ phơi ra đấy hứng lá vàng rơi, ông đồ cũng vẫn cứ ngồi đấy, chìm trong quên lãng. Ngoài trời mưa bụi bay ý câu thơ tả cảnh bình dị nhưng lại chứa chất nỗi niềm. Nơi ông đồ vẫn ngồi đấy và cả ngoài trời đâu đâu cũng thấm màu thê lương, não nuột. Hạt mưa xuân chỉ là mưa bụi lặng lẽ, không đủ làm ướt áo ai, cứ âm thầm, mênh mang. Chỉ là mưa bụi bay mà sao ảm đạm, lạnh lẽo. Mưa bay ngoài trời hay chính là mưa bay trong lòng người.
Lá vàng rơi và mưa bụi bay có thể coi là hai nét vẽ tạo hình cực tả nỗi buồn trong lòng người không chỉ thấm vào giấy đỏ, nghiên mực mà còn lan toả khắp không gian, để bức tranh xuân hiện lên với đường nét mờ nhòa, hiu hắt. Thật đúng là:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hai câu thơ của Vũ Đình Liên được coi là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, đó là kết quả của sự cộng hưởng cảm xúc, của nỗi thương người và tình hoài cổ.
Bài thơ kết thúc, vẫn với giọng kể lặng thầm:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ờ đâu bây giờ?
Có thể nổi đến khổ thơ cuối, niềm hoài cảm đã dâng đầy. Mỗi lời thơ bật ra như tiếng khóc thầm, day dứt. Mở đầu bài thơ là Mỗi năm hoa đào nở, kết thúc bài thơ là năm nay đào lại nở. Đây là kết cấu đầu cuối tương ứng, khá chặt chẽ, làm nổi lên niềm hoài cảm day dứt của nhà thơ; kết cấu ấy cũng như câu thơ năm nay đào lại nở gợi ta liên tưởng tới ý thơ của Thôi Hộ đời Đường:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
(Ngày này năm trước tại cửa này
Mặt người và sắc thắm hoa đào ánh vào nhau
Năm nay hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ
Nhưng người chẳng thấy đâu)
Phải chăng ý thơ của Thôi Hộ đã xuôi theo thời gian, trôi về thơ của Nguyễn Du (Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông) và neo đậu trong nỗi thương người và tình hoài cổ của Vũ Đình Liên để nở ra sắc hoa đào năm xưa và năm nay trong bài thơ này.
Đào lại nở, cảnh vẫn như cũ nhưng người chẳng thấy đâu.
Không thấy ông đồ xưa
Năm nay đào lại nở, nhưng ông đồ đã trở thành ông đồ Xưa, thành người muôn năm cũ, không biết hồn ở đâu bây giờ.
Tác giả không trực tiếp bày tỏ thái độ tình cảm mà chỉ bằng ngôn ngữ miêu tả, câu thơ năm chữ, ngắn, hình tượng thơ nổi lên với tất cả tâm tình xót thương vô hạn trước cái chết không gì cứu vãn nổi của một lớp người, một thời đại, một nền văn hiến đã mấy ngàn năm gắn bó với mảnh đất này. Trên dòng đời chảy trôi, hình ảnh ông đồ cứ mờ dần, mờ dần rồi mất hút trên con đường vô tận của thời gian, gợi nỗi hoài cảm đến day dứt.
Hai câu kết của bài thơ giống như tiếng gọi hồn lay tỉnh lòng người đến bâng khuâng:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Câu hỏi hướng về quá khứ xa xăm hay cất lên trong hiện tại, ngóng vọng về tương lai, là tất cả. Mối hoài cảm trào dâng nhà thơ muốn đi tìm những người muôn năm cũ tìm ông đồ, tìm lại một thời xa nay đã mất, muốn ngược dòng thời gian để tìm về nét đẹp xưa, níu giữ một nhã thú đang một đi không trở lại. Lời thơ là một câu hỏi nhưng cũng là lời tự vấn, hàm chứa cả một khoảng trời cảm xúc với bao nuối tiếc, xót xa. Tìm về những người muôn năm cũ nhưng biết hồn ở đâu bây giờ. Hồn là cách nói tinh tế. Ta có thể hiểu là linh hồn kiểu như Thác là thể phách, còn là tịnh anh, hồn cũng có thể hiểu là quốc hồn, quốc túy, là tinh hoa văn hóa của cha ông nhưng hồn ở đâu bây giờ. Ở đâu, hai chữ đầy dằn vặt, tiếc nuối. Hồn thiêng ấy bây giờ tìm đâu. Đến đây, ông đồ đã hòa nhập vào gia tài chung của nền văn hóa Việt, thuộc về những gì là quốc hồn, quốc túy của cha ông.
Câu thơ cuối cất lên giống như tiếng gọi đàn thăm thẳm, lời chiêu hồn cho một lớp người, một thời đại đã dần đi vào quá vãng.
Bài thơ với giọng kể, câu chữ, hình ảnh không tân kỳ trong khi thơ mới đang phá tung cái lề luật của thơ cũ y phá vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch nhưng Ông đồ vẫn được coi là kiệt tác, bởi đó là nét thăng hoa đẹp của hồn thơ Vũ Đình Liên, kết tinh từ lòng thương người và tình hoài cổ.
Bài thơ giông như một nén tâm hương của Vũ Đình Liên về một lớp người, một thời đại đã đi qua, một giá trị văn hóa đang bị mai một.
Thật hiển linh thay, khi tôi viết những dòng chữ này cùng với mưa bụi đón xuân những ngày giáp Tết, cành đào chúm chím nụ hồng bên thềm thế kỷ XXI thì nghệ thuật thư pháp đang được khôi phục lại. Bất ngờ tôi lại ngâm nga:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Người xưa đã từng nói: “ Thi trung hữu hoạ”. Đọc Ông đồ của Vũ Đình Liên thấy quả không sai. Ngày Tết, trong các gia đình thường treo tranh tứ bình. Riêng Vũ Đình Liên lại trang trí cho phòng của mình bằng những bức tranh thật là độc đáo.
Buổi sớm xuân, nhà thơ ra phố. Khắp nơi rực rỡ hoa đào.Về nhà ông lập tức cầm lấy cọ. Đương nhiên không thể thiếu một sắc hoa đào.Nhưng trong các bức tranh của Vũ Đình Liên, hoa đào không phải là biểu tượng mà chỉ là nền phong cảnh để ông đồ xuất hiện:
“ Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Cặp từ “mỗi”…” lại” cho ta thấy sự xuất hiện của ông đồ thường xuyên, đều đặn. Hoa đào từ lâu đã trở thành một tín hiệu để báo tin mùa xuân về. Bởi vậy nói” hoa đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu, giấy đỏ bên phố đông người qua lại. Chỉ bằng vài nét đơn sơ, nhà thơ đã khắc hoạ chân dung ông đồ với tất cả vẻ đẹp thanh cao, đậm một tâm tình người già.
Bức tranh thứ hai được phác hoạ một cách sống động. Ông đồ ngồi giữa đấm đông xúm xít, tấm tắc ngợi ca. Ngòi bút bay lượn trên khổ giấy:
“ Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Trong khoảnh khắc ấy, ông đồ đâu phải là “ di chứng của một thời tàn”. Hình ảnh ông đồ đắc chí như làm sống dậy cái thời nghệ thuật thư pháp đang ở đỉnh cao. Niềm vui của ông đồ chắc chẳng phải vì “ Bao nhiêu người thuê viết” thì ông có nhiều tiền. Ông vui vì thấy nét bút của mình không hẳn đã phí hoài mà vẫn còn có ích, đem lại niềm vui cho đời. Và ngay cả tài năng của ông đồ nữa, nó chỉ thể hiện trên câu thơ bằng những từ ngữ “ hoa tay”, “ thảo”, cũ kĩ ngay cả trong nhịp điệu của hình ảnh ví von “ phượng múa rồng bay”.
Nhưng niềm vui của ông đồ không được lâu. Chỉ một chữ “ nhưng”, sắc màu của bức tranh thứ ba đã thay đổi hẳn:
“ Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”.
Vũ Đình Liên đã phác hoạ một cảnh tượng đầy xót xa. Vẫn trên nền hoa đào, ông đồ ngồi ủ rũ, thâp thoáng những bóng người xa dần. Giá như có một sự đột biến nào đó khiến người ta không thích chữ ông nữa thì là một lẽ, đằng này những người đến với ông đồ cứ vơi dần đi, lòng người với thư pháp cũng nhạt đi nhiều. Các thủ pháp nhân hoá được sử dụng liên tiếp “ giấy đỏ buồn” , “ mực đọng”, “ nghiên sầu” chỉ tô đậm thêm nỗi thất vọng của ông đồ.
Rồi đến một ngày, chút lòng thương hại cũng rơi rụng nốt:
“ Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay….”
“Vẫn ngồi đấy” nghĩa là ông đồ vẫn đến theo tín hiệu của hoa đào, vẫn bày “ mực tàu giấy đỏ”. Ông đồ chờ đợi cái xúm xít khách mua chữ, chờ đợi đến lúc viết chữ cho khách. Có lẽ lúc bấy giờ trên thế gian này chỉ còn lại mỗi nhà thơ là có thể cảm thông được với nỗi buồn của ông đồ. Chỉ cảm thông thôi chứ nỗi buồn ấy lớn quá làm sao chia sẻ nổi. Sự cách biệt của tuổi tác, và nhẩt là của hai nền văn hoá khác nhau khiến cho nhà thơ chỉ biết đứng xa xa nhìn ông đồ mà thương cảm. Và kỳ lạ thay là một chiếc lá vàng”
“ Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã diễn tả tâm trạng của ông đồ một thời tàn. Mùa xuân mà lại có lá vàng rơi. Lá vàng là biểu tượng cho sự tàn úa. Mưa bụi tuy thật nhẹ nhàng nhưng lại thật dai dẳng. Nó làm tê tái cả lòng người. Đó không chỉ là nỗi buồn của ông đồ mà còn là nỗi nhớ tiếc của nhà thơ:
“ Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ già ở đầu bài đã biến thành ông đồ xưa ở cuối bài. Trong trường học, người học không cần ông đồ nữa. Và giờ đây, ở ngoài đường, người ta cũng lãng quên ông. Nhà thơ đã nói lên hình ảnh đáng thương của ông đồ, qua đó bộc lộ nỗi nhớ thương da diết của mình với cảnh cũ người xưa. Đó là cảnh người qua đường xúm lại thuê ông viết chữ, tấm tắc ngợi khen tài năng của ông. Nhưng giờ đây tất cả đã qua đi, ông đồ cũng đã biến mất. Hình ảnh ông đồ viết chữ bên đường mỗi dịp Tết đến xuân về là một nét đẹp văn hoa của người Việt Nam, vậy mà giờ nó đang bị mai một dần. Thời đó, hiếm có ai lại qua tâm tới ông, tất cả đều thờ ơ. Ở đây lòng nhân ái không chỉ với một người mà còn đối với một lớp người, một thế hệ con người tài năng bị lãng quên. Thế mới biết lòng thương người của Vũ Đình Liên thật rộng lớn.