Tôi là Giôn-xi, một cô hoạ sĩ nghèo của nước Mĩ xa xôi. Là một người nghệ sĩ tôi phải đi nhiều nơi để tìm cảm hứng sáng tác. Vì vậy, tôi đã gặp nhiều chuyện bất ngờ, có thể kể cho các bạn nghe hàng giờ. Nhưng trong tất cả những điều ấy, câu chuyện bất ngờ nhất lại là câu chuyện về chính bản thân tôi. Câu chuyện “Chiếc lá cuối cùng”.
. Ngày ấy, tôi và Xiu-đi - một chị bạn vô cùng thân thiết, tốt bụng - sống trong một khu nhà trọ rẻ tiền. Hàng xóm của chúng tôi hầu hết đều là những người lao động nghèo, trong đó có một người hoạ sĩ già tên là Bơ- men. Cụ Bơ-men cũng có một niềm đam mê rất lớn tới nghệ thuật nhưng có lẽ cụ chưa tìm được nguồn cảm hứng sáng tác. Trong phòng cụ có một tấm vải vẽ căng ra đã từ lâu lắm và ông cụ suốt ngày có vẻ say khướt.
Mùa đông năm ấy, trời rét dữ dội. Trong xóm trọ của chúng tôi lan tràn một căn bệnh quái ác, căn bệnh viêm phổi. Cuộc sống nhiều thiếu thốn, đói và rét, cộng với thể lực vốn yếu ớt, tôi cũng bị gã khổng lồ độc ác ấy hỏi thăm. Người mệt rã rời, những cơn ho dữ dội tưởng chừng không dứt khiến người tôi như tan ra thành bụi. Tôi đã hoàn toàn bị căn bệnh đánh gục. Chị Xiu hoảng hốt chăm lo chạy chữa cho tôi. Với số tiền ít ỏi, dường như Xiu đã phải nhịn ăn nhiều bữa để lo bác sĩ. Chị ít ngủ và hay khóc thầm. Ngoài Xiu và vị bác sĩ già đáng mến, cụ Bơ-men cũng thường hay lên thăm tôi. Mỗi khi thấy tôi thều thào ho khan cụ đều lắc đầu ngao ngán. Và nhất là khi thấy tôi từ chối những thìa cháo của Xiu, cụ thường không tiếc lời mắng mỏ tôi là con bé ngu ngốc.
Dần dần, tôi thấy người mình yếu đi. Những cơn ho dai dẳng hơn, tôi không đủ sức để mà ho lớn. Tôi nằm ẹp xuống giường, không thể tự dậy dược. Tôi thấy sự sống đang từ bỏ mình từng ngày từng phút. Căn phòng quanh tôi trống vắng, lạnh lẽo vô cùng. Tôi thẫn thờ nhìn qua cửa sổ: ngoài kia, những chiếc lá thường xuân đang lặng lẽ rời cành. Chao ôi! Cuộc đời tôi cũng đang lặng lẽ rời bỏ sự sống như thế. Từng phút, từng phút một... và tôi biết, khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì cuộc đời tôi cũng lìa bỏ nhân gian. Tôi nói ý nghĩ ấy với Xiu, chị ôm lấy tôi vào lòng an ủi:
Con mèo con của chị... Em đừng nghĩ vớ vẩn như thế. Bác sĩ nói em sắp bình phục rồi.
Tôi biết đó chỉ là lời nói dối. Xiu đi lấy thuốc cho tôi, chị gặp cụ Bơ- men, nói gì đó với cụ. Tôi lại thấy cụ mắng tôi rất lớn:
Ngu ngốc! Thật là con bé ngu ngốc! Ai lại đi gắn đời mình vào những chiếc lá ngớ ngẩn!
Đêm hôm ấy, mưa gió dữ dội. Tôi nghe ngoài trời từng đợt lá ràn rạt rơi. Tôi biết, ngoài kia, chiếc lá thường xuân cuối cùng sắp rụng. Tôi chỉ chờ đến ngày mai nhìn thân cây trơ trụi để trút hơi thở cuối cùng.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy thấy chị Xiu vẫn ngủ gục trên bàn: tối qua có lẽ chị đã thức khuya lắm để chăm tôi. Tôi chăm chú nhìn gương mặt hốc hác, xanh xao của chị mà thấy thương chị vô cùng. Bất giác, tôi xót xa mong chờ giây phút chiếc lá cuối cùng rời cành để khỏi làm phiền những người xung quanh. Chị Xiu thức dậy, lại gần hỏi xem tôi có cần gì không. Tôi không nhìn Xiu, lạnh lùng bảo chị kéo tấm rèm lên. Xiu uể oải, chán chường và lo lắng căng thẳng miễn cưỡng kéo tấm rèm lên. Ô kìa! Ngoài kia một chiếc lá thường xuân vẫn còn đó! Chiếc lá kiên trung bám vào thân cây bò trên tường. Chiếc lá còn xanh, chỉ rìa lá thì đã ngả vàng. Trận mưa giông dữ dội đêm qua không làm chiếc lá mất đi thì tại sao tôi lại vội rời bỏ cuộc sống tươi đẹp? Rời bỏ ước mơ trở thành họa sĩ? Rời bỏ Xiu yêu quý của tôi? Tôi nhìn sang Xiu, chị cũng đang kinh ngạc trân trân nhìn chiếc lá. Tôi vui vẻ bảo chị lấy tôi chút chút rượu nhẹ. Xiu sung sướng rời khỏi phòng.
Dần dần, tồi thấy tinh thần phấn chấn hơn. Người thấy mạnh mẽ dần lên. Bác sĩ vào thăm bệnh cho tôi cũng thấy vui vẻ hẳn. Một buổi sáng, trong lúc chờ Xiu đi lấy thuốc, tôi khẽ lấy cuộn len và chiếc que đan để thử làm chút gì sau thời gian dài nằm giường bệnh. Lát sau, Xiu vào phòng, tôi thấy gương mặt Xiu vô cùng xúc động. Chị bước tới giường, nhìn sâu vào mắt tôi:
Con mèo con của chị...! Cụ Bơ-men đã mất rồi. Mất vì bệnh viêm phổi. Vào cái đêm mưa gió hãi hùng hôm trước, người ta tìm thấy cụ khi người cụ đã ướt mềm. Sau đêm ấy, cụ nằm liệt giường và vừa mất sáng nay. Dưới chân tường trước cửa sổ phòng chị em mình - Xiu hướng ánh mắt đến chiếc lá thường xuân bất động - người ta thấy rơi ***** những chiếc bút vẽ, những bảng màu... Giôn-xi! Có bao giờ em thắc mắc tại sao không bao giờ em thấy chiếc lá cuối cùng rung động...? Cụ Bơ-men đã vẽ nó vào cái đêm tất cả những chiếc lá khác rời cành.
Nói rồi Xiu khóc nức nở. Tôi trân trân nhìn chiếc lá cuối cùng.. Lòng trào lên niềm một xúc động vô bờ.
Giờ đây, tôi đã là một hoạ sĩ có tên tuổi. Dưới mỗi bức vẽ của mình tôi đều kí tên Bơ-men. Hàng năm, vào ngày giỗ của cụ, tôi vẫn trở về khu nhà trọ xưa viếng mộ cụ. Kỉ niệm về cụ và chiếc lá cuối cùng tôi vẫn còn lưu giữ trọn vẹn trong tim. Tôi đã nhiều lần thử vẽ lại chiếc lá ấy nhưng lần nào cũng đành bất lực ngồi trước mảnh vải trắng trơn. Tôi biết, chỉ có lao động nghệ thuật hết mình tôi mới có thể đền đáp sự hi sinh vĩ đại của người hoạ sĩ già đáng kính ấy.
Tôi là Giôn-xi, một cô hoạ sĩ nghèo của nước Mĩ xa xôi. Là một người nghệ sĩ tôi phải đi nhiều nơi để tìm cảm hứng sáng tác. Vì vậy, tôi đã gặp nhiều chuyện bất ngờ, có thể kể cho các bạn nghe hàng giờ. Nhưng trong tất cả những điều ấy, câu chuyện bất ngờ nhất lại là câu chuyện về chính bản thân tôi. Câu chuyện “Chiếc lá cuối cùng”.
. Ngày ấy, tôi và Xiu-đi - một chị bạn vô cùng thân thiết, tốt bụng - sống trong một khu nhà trọ rẻ tiền. Hàng xóm của chúng tôi hầu hết đều là những người lao động nghèo, trong đó có một người hoạ sĩ già tên là Bơ- men. Cụ Bơ-men cũng có một niềm đam mê rất lớn tới nghệ thuật nhưng có lẽ cụ chưa tìm được nguồn cảm hứng sáng tác. Trong phòng cụ có một tấm vải vẽ căng ra đã từ lâu lắm và ông cụ suốt ngày có vẻ say khướt.
Mùa đông năm ấy, trời rét dữ dội. Trong xóm trọ của chúng tôi lan tràn một căn bệnh quái ác, căn bệnh viêm phổi. Cuộc sống nhiều thiếu thốn, đói và rét, cộng với thể lực vốn yếu ớt, tôi cũng bị gã khổng lồ độc ác ấy hỏi thăm. Người mệt rã rời, những cơn ho dữ dội tưởng chừng không dứt khiến người tôi như tan ra thành bụi. Tôi đã hoàn toàn bị căn bệnh đánh gục. Chị Xiu hoảng hốt chăm lo chạy chữa cho tôi. Với số tiền ít ỏi, dường như Xiu đã phải nhịn ăn nhiều bữa để lo bác sĩ. Chị ít ngủ và hay khóc thầm. Ngoài Xiu và vị bác sĩ già đáng mến, cụ Bơ-men cũng thường hay lên thăm tôi. Mỗi khi thấy tôi thều thào ho khan cụ đều lắc đầu ngao ngán. Và nhất là khi thấy tôi từ chối những thìa cháo của Xiu, cụ thường không tiếc lời mắng mỏ tôi là con bé ngu ngốc.
Dần dần, tôi thấy người mình yếu đi. Những cơn ho dai dẳng hơn, tôi không đủ sức để mà ho lớn. Tôi nằm ẹp xuống giường, không thể tự dậy dược. Tôi thấy sự sống đang từ bỏ mình từng ngày từng phút. Căn phòng quanh tôi trống vắng, lạnh lẽo vô cùng. Tôi thẫn thờ nhìn qua cửa sổ: ngoài kia, những chiếc lá thường xuân đang lặng lẽ rời cành. Chao ôi! Cuộc đời tôi cũng đang lặng lẽ rời bỏ sự sống như thế. Từng phút, từng phút một... và tôi biết, khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì cuộc đời tôi cũng lìa bỏ nhân gian. Tôi nói ý nghĩ ấy với Xiu, chị ôm lấy tôi vào lòng an ủi:
Con mèo con của chị... Em đừng nghĩ vớ vẩn như thế. Bác sĩ nói em sắp bình phục rồi.
Tôi biết đó chỉ là lời nói dối. Xiu đi lấy thuốc cho tôi, chị gặp cụ Bơ- men, nói gì đó với cụ. Tôi lại thấy cụ mắng tôi rất lớn:
Ngu ngốc! Thật là con bé ngu ngốc! Ai lại đi gắn đời mình vào những chiếc lá ngớ ngẩn!
Đêm hôm ấy, mưa gió dữ dội. Tôi nghe ngoài trời từng đợt lá ràn rạt rơi. Tôi biết, ngoài kia, chiếc lá thường xuân cuối cùng sắp rụng. Tôi chỉ chờ đến ngày mai nhìn thân cây trơ trụi để trút hơi thở cuối cùng.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy thấy chị Xiu vẫn ngủ gục trên bàn: tối qua có lẽ chị đã thức khuya lắm để chăm tôi. Tôi chăm chú nhìn gương mặt hốc hác, xanh xao của chị mà thấy thương chị vô cùng. Bất giác, tôi xót xa mong chờ giây phút chiếc lá cuối cùng rời cành để khỏi làm phiền những người xung quanh. Chị Xiu thức dậy, lại gần hỏi xem tôi có cần gì không. Tôi không nhìn Xiu, lạnh lùng bảo chị kéo tấm rèm lên. Xiu uể oải, chán chường và lo lắng căng thẳng miễn cưỡng kéo tấm rèm lên. Ô kìa! Ngoài kia một chiếc lá thường xuân vẫn còn đó! Chiếc lá kiên trung bám vào thân cây bò trên tường. Chiếc lá còn xanh, chỉ rìa lá thì đã ngả vàng. Trận mưa giông dữ dội đêm qua không làm chiếc lá mất đi thì tại sao tôi lại vội rời bỏ cuộc sống tươi đẹp? Rời bỏ ước mơ trở thành họa sĩ? Rời bỏ Xiu yêu quý của tôi? Tôi nhìn sang Xiu, chị cũng đang kinh ngạc trân trân nhìn chiếc lá. Tôi vui vẻ bảo chị lấy tôi chút chút rượu nhẹ. Xiu sung sướng rời khỏi phòng.
Dần dần, tồi thấy tinh thần phấn chấn hơn. Người thấy mạnh mẽ dần lên. Bác sĩ vào thăm bệnh cho tôi cũng thấy vui vẻ hẳn. Một buổi sáng, trong lúc chờ Xiu đi lấy thuốc, tôi khẽ lấy cuộn len và chiếc que đan để thử làm chút gì sau thời gian dài nằm giường bệnh. Lát sau, Xiu vào phòng, tôi thấy gương mặt Xiu vô cùng xúc động. Chị bước tới giường, nhìn sâu vào mắt tôi:
Con mèo con của chị...! Cụ Bơ-men đã mất rồi. Mất vì bệnh viêm phổi. Vào cái đêm mưa gió hãi hùng hôm trước, người ta tìm thấy cụ khi người cụ đã ướt mềm. Sau đêm ấy, cụ nằm liệt giường và vừa mất sáng nay. Dưới chân tường trước cửa sổ phòng chị em mình - Xiu hướng ánh mắt đến chiếc lá thường xuân bất động - người ta thấy rơi vãi những chiếc bút vẽ, những bảng màu... Giôn-xi! Có bao giờ em thắc mắc tại sao không bao giờ em thấy chiếc lá cuối cùng rung động...? Cụ Bơ-men đã vẽ nó vào cái đêm tất cả những chiếc lá khác rời cành.
Nói rồi Xiu khóc nức nở. Tôi trân trân nhìn chiếc lá cuối cùng.. Lòng trào lên niềm một xúc động vô bờ.
Giờ đây, tôi đã là một hoạ sĩ có tên tuổi. Dưới mỗi bức vẽ của mình tôi đều kí tên Bơ-men. Hàng năm, vào ngày giỗ của cụ, tôi vẫn trở về khu nhà trọ xưa viếng mộ cụ. Kỉ niệm về cụ và chiếc lá cuối cùng tôi vẫn còn lưu giữ trọn vẹn trong tim. Tôi đã nhiều lần thử vẽ lại chiếc lá ấy nhưng lần nào cũng đành bất lực ngồi trước mảnh vải trắng trơn. Tôi biết, chỉ có lao động nghệ thuật hết mình tôi mới có thể đền đáp sự hi sinh vĩ đại của người hoạ sĩ già đáng kính ấy.
Tớ không thể làm hết hẳn 1 bài được vì nó quá dài và time thì không có nên bạn tham khảo bài viết này nhé!
Tôi là Giôn-xi, một cô hoạ sĩ nghèo của nước Mĩ xa xôi. Là một người nghệ sĩ tôi phải đi nhiều nơi để tìm cảm hứng sáng tác. Vì vậy, tôi đã gặp nhiều chuyện bất ngờ, có thể kể cho các bạn nghe hàng giờ. Nhưng trong tất cả những điều ấy, câu chuyện bất ngờ nhất lại là câu chuyện về chính bản thân tôi. Câu chuyện “Chiếc lá cuối cùng”.
. Ngày ấy, tôi và Xiu-đi - một ch***** bạn vô cùng thân thiết, tốt bụng - sống trong một khu nhà trọ rẻ tiền. Hàng xóm của chúng tôi hầu hết đều là những người lao động nghèo, trong đó có một người hoạ sĩ già tên là Bơ- men. Cụ Bơ-men cũng có một niềm đam mê rất lớn tới nghệ thuật nhưng có lẽ cụ chưa tìm được nguồn cảm hứng sáng tác. Trong phòng cụ có một tấm vải vẽ căng ra đã từ lâu lắm và ông cụ suốt ngày có vẻ say khướt.
Mùa đông năm ấy, trời rét dữ dội. Trong xóm trọ của chúng tôi lan tràn một c*****ệnh quái ác, c*****ệnh viêm phổi. Cuộc sống nhiều thiếu thốn, đói và rét, cộng với thể lực vốn yếu ớt, tôi cũng b***** gã khổng lồ độc ác ấy hỏi thăm. Người mệt rã rời, những cơn ho dữ dội tưởng chừng không dứt khiến người tôi như tan ra thành bụi. Tôi đã hoàn toàn b***** c*****ệnh đánh gục. Ch***** Xiu hoảng hốt chăm lo chạy chữa cho tôi. Với số tiền ít ỏi, dường như Xiu đã phải nh*****n ăn nhiều bữa để lo bác sĩ. Ch***** ít ngủ và hay khóc thầm. Ngoài Xiu và v***** bác sĩ già đáng mến, cụ Bơ-men cũng thường hay lên thăm tôi. Mỗi khi thấy tôi thều thào ho khan cụ đều lắc đầu ngao ngán. Và nhất là khi thấy tôi từ chối những thìa cháo của Xiu, cụ thường không tiếc lời mắng mỏ tôi là con bé ngu ngốC
Dần dần, tôi thấy người mình yếu đi. Những cơn ho dai dẳng hơn, tôi không đủ sức để mà ho lớn. Tôi nằm ẹp xuống giường, không thể tự dậy dược. Tôi thấy sự sống đang từ bỏ mình từng ngày từng phút. Căn phòng quanh tôi trống vắng, lạnh lẽo vô cùng. Tôi thẫn thờ nhìn qua cửa sổ: ngoài kia, những chiếc lá thường xuân đang lặng lẽ rời cành. Chao ôi! Cuộc đời tôi cũng đang lặng lẽ rời bỏ sự sống như thế. Từng phút, từng phút một... và tôi biết, khi chiếc lá cuối cùng lìa cành thì cuộc đời tôi cũng lìa bỏ nhân gian. Tôi nói ý nghĩ ấy với Xiu, ch***** ôm lấy tôi vào lòng an ủi:
Con mèo con của ch*****... Em đừng nghĩ vớ vẩn như thế. Bác sĩ nói em sắp bình phục rồi.
Tôi biết đó chỉ là lời nói dối. Xiu đi lấy thuốc cho tôi, ch***** gặp cụ Bơ- men, nói gì đó với cụ. Tôi lại thấy cụ mắng tôi rất lớn:
Ngu ngốc! Thật là con bé ngu ngốc! Ai lại đi gắn đời mình vào những chiếc lá ngớ ngẩn!
Đêm hôm ấy, mưa gió dữ dội. Tôi nghe ngoài trời từng đợt lá ràn rạt rơi. Tôi biết, ngoài kia, chiếc lá thường xuân cuối cùng sắp rụng. Tôi chỉ chờ đến ngày mai nhìn thân cây trơ trụi để trút hơi thở cuối cùng.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy thấy ch***** Xiu vẫn ngủ gục trên bàn: tối qua có lẽ ch***** đã thức khuya lắm để chăm tôi. Tôi chăm chú nhìn gương mặt hốc hác, xanh xao của ch***** mà thấy thương ch***** vô cùng. Bất giác, tôi xót xa mong chờ giây phút chiếc lá cuối cùng rời cành để khỏi làm phiền những người xung quanh. Ch***** Xiu thức dậy, lại gần hỏi xem tôi có cần gì không. Tôi không nhìn Xiu, lạnh lùng bảo ch***** kéo tấm rèm lên. Xiu uể oải, chán chường và lo lắng căng thẳng miễn cưỡng kéo tấm rèm lên. Ô kìa! Ngoài kia một chiếc lá thường xuân vẫn còn đó! Chiếc lá kiên trung bám vào thân cây bò trên tường. Chiếc lá còn xanh, chỉ rìa lá thì đã ngả vàng. Trận mưa giông dữ dội đêm qua không làm chiếc lá mất đi thì tại sao tôi lại vội rời bỏ cuộc sống tươi đẹp? Rời bỏ ước mơ trở thành họa sĩ? Rời bỏ Xiu yêu quý của tôi? Tôi nhìn sang Xiu, ch***** cũng đang kinh ngạc trân trân nhìn chiếc lá. Tôi vui vẻ bảo ch***** lấy tôi chút chút rượu nhẹ. Xiu sung sướng rời khỏi phòng.
Dần dần, tồi thấy tinh thần phấn chấn hơn. Người thấy mạnh mẽ dần lên. Bác sĩ vào thăm bệnh cho tôi cũng thấy vui vẻ hẳn. Một buổi sáng, trong lúc chờ Xiu đi lấy thuốc, tôi khẽ lấy cuộn len và chiếc que đan để thử làm chút gì sau thời gian dài nằm giường bệnh. Lát sau, Xiu vào phòng, tôi thấy gương mặt Xiu vô cùng xúc động. Ch***** bước tới giường, nhìn sâu vào mắt tôi:
Con mèo con của ch*****...! Cụ Bơ-men đã mất rồi. Mất vì bệnh viêm phổi. Vào cái đêm mưa gió hãi hùng hôm trước, người ta tìm thấy cụ khi người cụ đã ướt mềm. Sau đêm ấy, cụ nằm liệt giường và vừa mất sáng nay. Dưới chân tường trước cửa sổ phòng ch***** em mình - Xiu hướng ánh mắt đến chiếc lá thường xuân bất động - người ta thấy rơi ***** những chiếc bút vẽ, những bảng màu... Giôn-xi! Có bao giờ em thắc mắc tại sao không bao giờ em thấy chiếc lá cuối cùng rung động...? Cụ Bơ-men đã vẽ nó vào cái đêm tất cả những chiếc lá khác rời cành.
Nói rồi Xiu khóc nức nở. Tôi trân trân nhìn chiếc lá cuối cùng.. Lòng trào lên niềm một xúc động vô bờ.
Giờ đây, tôi đã là một hoạ sĩ có tên tuổi. Dưới mỗi bức vẽ của mình tôi đều kí tên Bơ-men. Hàng năm, vào ngày giỗ của cụ, tôi vẫn trở về khu nhà trọ xưa viếng mộ cụ. Kỉ niệm về cụ và chiếc lá cuối cùng tôi vẫn còn lưu giữ trọn vẹn trong tim. Tôi đã nhiều lần thử vẽ lại chiếc lá ấy nhưng lần nào cũng đành bất lực ngồi trước mảnh vải trắng trơn. Tôi biết, chỉ có lao động nghệ thuật hết mình tôi mới có thể đền đáp sự hi sinh vĩ đại của người hoạ sĩ già đáng kính ấy
cHÚC BẠN học tốt!
Nhìn Xiu buồn thảm kéo tấm mành lên, tôi nhẹ buông một tiếng thở dài. “Chị Xiu thân yêu ạ! Cái lúc mà chiếc lá cuối cùng còn lại trên cây thường xuân kia rụng nốt cũng là lúc em bước vào chuyến đi xa xôi bí ẩn của riêng mình” – tôi thầm nghĩ. Đôi mắt tôi cứ nhìn theo cánh tay Xiu đang nặng nhọc kéo một tấm mảnh nhẹ tênh mà như kéo hàng ngàn tảng đá. Cũng phải thôi! Tôi biết việc này quá đau lòng với chị ấy. Nhưng với cái căn bệnh phổi quái ác này thì liệu tôi còn có thể sống được bao lâu?
Xiu đã kéo tấm mành lên. Và, thật là kỳ lạ, chiếc lá vẫn ở đó sau đêm bão hôm qua. Tôi nghĩ nó hẳn đã rụng sau trận mưa vùi dập và những con gió phũ phàng kéo dài suốt cả một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt của đêm qua. Nhưng không, chiếc lá vẫn kiên trì bám trụ đến cùng. Vẫn còn chiếc chiếc lá đó với cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa. Đó chính là chiếc là cuối cùng trên cây.
Tôi nhìn Xiu. Khuôn mặt chị dường như ánh lên tia hy vọng. Đôi mắt chị sáng lên khiến khuôn mặt hốc hác của chị tươi tỉnh hơn hẳn. Xiu thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ chị không giấu được sự vui mừng khi vẫn còn một chiếc lá kiên cường bám trụ trên cây. Tôi biết chị thương tôi lắm! Chị luôn quan tâm tôi như quan tâm đứa em ruột của chị vậy. Tôi thấy thương chị quá! Xiu cũng chỉ là một họa sĩ nghèo và trẻ tuổi giống tôi. Chúng tôi sống cùng nhau trong căn hộ nhỏ thuê được ở gần công viên Oa-sinh-tơn và theo đuổi ước mơ của mình. Tôi luôn luôn hy vọng một ngày nào đó sẽ vẽ được vịnh Na-plơ. Nhưng căn bệnh sưng phổi đã tàn phá con người tôi, làm cho tôi chẳng còn muốn sống nữa. Còn Xiu, chị phải ngày đêm chăm sóc một đứa em bệnh tật như tôi, phải ngày ngày nhìn tôi chết dần chết mòn đi. Điều đó càng làm tôi thấy thương Xiu hơn nữa. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, và rồi một ngày nào đó tôi sẽ phải chết.
“Đó là chiếc là cuối cùng”, tôi nói, “Em cứ tưởng là nhất định trong đêm vừa qua nó đã rụng. Em nghe thấy tiếng gió thội. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”.
“Em thân yêu, thân yêu!”, Xiu nói với tôi bằng một giọng hết sức quan tâm, chị cúi khuôn mặt hốc hác của mình xuống gần gối tôi nằm, “Em hãy nghĩ đến chị, nếu em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?”.
Tôi không trả lời, vì lúc đó tôi không biết nói sao và cũng không muốn nói gì với chị nữa. “Cái cô đơn nhất trong thế gian là một tâm hồn đang chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình.” – tôi thầm nghĩ. Và khi mà những sợi dây ràng buộc tôi với tình bạn và với thế gian cứ lơi lỏng dần từng sợi một, ý nghĩ ấy càng choán lấy tâm trí tôi mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm đó trôi qua và trong cái ánh vàng dìu dịu của buổi hoàng hôn, tôi vẫn thấy được chiếc lá thường xuân đơn độc bám trụ trên cây. Thế rồi, khi màn đêm buông xuống cùng với màu đen kịt của bầu trời, gió bấc lại ào ào, trong khi mưa vẫn đập mạnh vào cửa sổ và rơi lộp độp xuống đất.
Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa ló rạng và những tia nắng đầu tiên mới xuất hiện, tôi lại nhờ Xiu kéo tấm mành lên. Và, tôi lại chờ đợi, chờ đợi cái cảnh trên cây thường xuân bên cửa sổ không còn chiếc là nào. Nhưng khi chiếc mành được kéo lên, tôi có thể thấy rõ chiếc lá thường xuân vẫn còn đó. Tôi nằm lặng người, nhìn chiếc lá hồi lâu. Tôi ngắm kĩ chiếc lá gan dạ ấy. Đột nhiên, trong lòng tôi trào lên cái khao khát được sống, được hy vọng. Và, tôi cất tiếng gọi Xiu đang quấy món cháo gà trên lò hơi đốt.
“Em thật là một con bé hư, chị Xiu thân yêu ơi”, tôi nói trong sự ngượng ngùng, “Có một cái gì đó đã làm cho chiếc là cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội. Giờ thị chị có thể cho em xin tí cháo và chút sữa pha ít rượu vang đỏ và – khoan – đưa cho em chiếc gương tay trước đã, rồi xép mấy chiếc gối lại quanh em, để em ngồi dậy xem chị nấu nướng”.
Xiu làm theo những gì tôi nói. Nét tươi vui lộ hẳn trên khuôn mặt chị. Có lẽ chị rất mừng vì đứa em ngốc nghếch như tôi đã biết suy nghĩ cho thấu đáo. Tôi thầm cảm ơn chị vì đã yêu thương, chăm sóc tôi suốt khoảng thời gian mà tôi ốm bệnh. Lúc lâu sau, tôi khẽ nói: “Chị Xiu thân yêu ơi, một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ”.
Buổi chiều, vị bác sĩ lại đến khám cho tôi, và khi ông ra về, Xiu kiếm cơ ra ngoài hành lang. Chị nói chuyện với bác sĩ một lúc, nét mặt chị rạng rỡ hẳn. Có lẽ trước kia tôi đã nhầm. Có lẽ giờ đây tôi đang khỏe lại. Có lẽ tôi sẽ lại có cơ hội sống.
Ngày hôm sau cũng vậy. Xiu lại nói chuyện với bác sĩ. Lần này, tôi nhìn thấy một nụ cười nhẹ nhõm trên môi chị. Và chiều hôm đó, trong khi tôi đang vui vẻ đan một chiếc khăn choàng len màu xanh thẫm rất vô dụng, chị tiến tới bên giường tôi nằm, ôm lấy tôi và những chiếc gối một lúc lâu. Rồi chị nhẹ nhàng nói với tôi: “Chị có chuyện này muốn kể với em, con chuột bạch của chị. Cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi hôm nay ở bệnh viện rồi.”. Chị dừng lại một chút, như báo hiệu một câu chuyện buồn thật buồn. Cụ Bơ-men cũng là một họa sĩ nghèo thuê phòng ở tầng dưới nơi chúng tôi sống. Bốn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được; cụ thường ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ để kiếm tiền. Cụ Bơ-men như một người bạn lớn của chúng tôi vậy. Cụ yêu thương và quan tâm tới tôi như tôi là con cụ. Và thật buồn khi biết tin cụ đã qua đời, vì cái chứng bệnh đã từng khiến tôi sống trong mòn mỏi. “Cụ ốm chỉ có hai ngày – Xiu tiếp. Buổi sáng ngày thứ nhất, bác gác cổng thấy cụ ốm nặng trong căn phòng của cũ ở tầng dưới. Giàu và áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt. Chẳng ai hình dung nổi cụ đã ở đâu trong một đêm khủng khiếp như thế. Nhưng rồi người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó, và vài chiếc bút long rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau, và – em thân yêu ơi, em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn chiếc là thường xuân cuối cùng ở trên tường. Em có lấy làm lạ tại sao chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi không? Ồ, em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men, - cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”.
Trong những dải mật vàng của hoàng hôn giăng kín bầu trời, có một người con gái đang nhìn về xa xăm...
Đông lại đến. Một mùa đông lạnh giá của nước Mỹ lại về với những con người nghèo khổ. Tôi khoác tấm áo tấm áo dày mà tôi mua được từ số tiền bán bức tranh vẽ vịnh Na-plơ đứng trước mộ cụ Bơ-men – người mà Giôn-xi tôi cả đời sẽ chẳng thể nào đền đáp được công ơn.
Ngày ấy, cũng vào mùa đông tuyết phủ kín đường, tôi đang nằm trên giường trong một căn hộ thuê ở gần công viên Oa-sinh-tơn. Tôi bị viêm phổi rất nặng nhưng lại không có đủ tiền để chạy chữa đến nơi đến chốn, dần dần tôi trở nên tuyệt vọng. Lúc đó, tôi chỉ thấy trước mắt một tương lai không ánh sáng, một con đường hầm đen tối chẳng có lối ra. Tôi cố tìm một lý do khiến tôi sẽ buông xuôi một cách tự nhiên, và tôi đã tìm thấy những chiếc lá thường xuân bên cửa sổ. Tôi bắt đầu ngồi chờ chuyến đi sang thế giới bên kia của mình ngay khi chiếc lá thường xuân bắt đầu rụng xuống. Mặc dù Xiu – người “chị” thân thiết của tôi can ngăn hết lời, tôi vẫn bướng bỉnh làm theo ý của mình. Mỗi sáng, tôi đều ra lệnh cho Xiu kéo tấm mành màu xanh xuống để đếm những ngày còn lại tôi sẽ sống. Xiu có vẻ lo lắng ra mặt, nhưng tôi thì vẫn cứ khăng khăng làm, vì tôi chẳng còn gì để mất nữa rồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, tôi ngồi thẫn thờ mở to cặp mắt nhìn vào tấm mành màu xanh đang che kín cửa sổ và chờ Xiu tỉnh dậy. Khoảng một tiếng sau, Xiu tỉnh dậy, tôi thều thào bảo Xiu kéo tấm mành lên để nhìn cây thường xuân, như mọi ngày. Xiu làm theo một cách chán nản. Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió rít phũ phàng suốt đêm, trên cây vẫn còn một chiếc lá ngoan cố bám trụ lại. Tôi biết đó sẽ là chiếc lá quyết định số phận của tôi trong trò chơi may rủi này. Tôi đã nói với Xiu:
- Đó là chiếc lá cuối cùng. Em cứ tưởng nhất định trong đêm vừa qua nó đã rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó em sẽ chết.
Xiu cúi khuôn mặt hốc hác xuống gần gối nhẹ nhàng khuyên tôi hãy gắng gượng sống. Tôi im lặng. Tôi nghĩ gắng gượng sống để làm gì khi cái sợi dây buộc tôi với cuộc sống này đang lỏng dần, khi tâm hồn tôi đã không còn hy vọng vào cuộc sống…. Bỗng chốc, cái ý nghĩ kỳ quặc về chiếc lá lại choán lấy tâm trí tôi mạnh hơn. Cái ý nghĩ về chiếc lá thường xuân mỏng manh nhưng lại mang theo trách nhiệm về mạng sống của tôi sẽ rụng trong tối nay. Còn tôi cũng sẽ bắt đầu chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình. Cả ngày hôm đó và ngay cả trong ánh hoàng hôn tôi vẫn có thể trông thấy chiếc lá cố níu vào cái cuống của nó một cách đơn độc như cuộc sống bấp bênh của những con người nghèo khổ. Tôi nghĩ mình như vậy cũng chẳng thấm thía vào đâu so với cụ Bơ-men tầng dưới. Cụ đã mơ ước vẽ nên một kiệt tác hơn bốn chục năm nay nhưng vẫn chưa thực hiện được. Vậy mà cụ vẫn sống, vẫn lạc quan yêu đời chứ đâu có như tôi – một đứa vô dụng đang chờ thần chết tới đưa đi….Đêm ấy, gió bấc thổi ào ào từng cơn lạnh thấu xương thấu tủy cùng những cơn mưa giá buốt trút xuống một cách phũ phàng.
Sáng hôm sau, tôi lại ra lệnh cho Xiu kéo tấm mành lên. Chiếc lá vẫn còn đó! Tôi sững người ngắm nhìn chiếc lá hồi lâu trong khi Xiu đang quấy cháo gà. Tôi chợt nhận ra rằng bấy lâu nay chính tôi đã tự bịt lối thoát của mình. Có một ai đấy bằng một phép màu nào đó đã làm cho chiếc lá bám trụ lại để trách móc tôi về sự tồi tệ của bản thân. Tôi bỗng nhận ra muốn chết là một tội lớn. Tôi gọi Xiu và kể cho Xiu cái điều tôi vừa giác ngộ được. Một lúc sau, tôi đã nói ước mơ của cả đời mình một cách chắc chắn với Xiu. Rồi Xiu đi ra ngoài hành lang khi ông bác sĩ ra về. Tôi biết là Xiu đang kiếm cớ để gặp bác sĩ, nhưng tôi chẳng thể nghe thấy họ nói những gì. Tôi thấy vẻ mặt của Xiu rạng rỡ hẳn lên và bất giác tôi cảm thấy mình sẽ khỏi bệnh nhanh thôi. Tim tôi ấm lên niềm hi vọng và tôi đưa đôi mắt đang nhìn xa xăm của mình về phía ô của sổ nơi có chiếc lá thường xuân ấy và nở một nụ cười trong vô thức...
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm và bắt đầu đan một chiếc khăn choàng len màu xanh thẫm trông có vẻ rất vô dụng. Xiu tiến tới ôm lấy tôi cùng chiếc gối nói:
- Chị có chuyện này muốn nói với em, con chuột bạch của chị – Xiu nói – Cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi hôm nay ở bệnh viện rồi. Cụ ốm chỉ có hai ngày. Buổi sáng ngày thứ nhất, bác gác cổng thấy cụ ốm nặng trong căn phòng của cụ ở tầng dưới. Giày và áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt. Chẳng ai hình dung nổi cụ đã ở đâu trong một đêm khủng khiếp như thế. Nhưng rồi người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau, và em thân yêu ơi, em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn chiếc lá thường xuân cuối cùng ở trên tường. Em có lấy làm lạ tại sao chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi không? Ồ, em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men – cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”.
Giờ thì tôi chẳng còn dại dột chơi trò may rủi kiểu xưa nữa. Tôi đã thấm thía bài học mà “ ai đấy” đã dạy cho tôi, bài học mà “ ai đấy” đã phải đánh đổi mạng sống của mình để cứu tôi….Mùa đông giờ đã không còn quá lạnh trên đất Mỹ nữa rồi, đông năm nay “đẹp” lắm. Chỉ tiếc cụ Bơ-men đáng kính không thể chiêm ngưỡng mùa đông này.