Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phấm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nối lên hình tượng Chí Phèo trong tác phấm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã đế lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hon nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khố đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khố đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khố và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thử cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hon phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đấy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với nhũng người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thế ngay trong nhừng hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hon khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Neu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đòi sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thế khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tụ’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ưót nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mất và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giói người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đòi trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở…Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.
Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.
Mở đầu là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo : "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…". Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của người đàn ông mà trước đây hiền "như đất". Qua tiếng chửi đó, người đọc thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự dửng dưng của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc. Và cuộc đời của Chí Phèo lần lượt hiện dần lên đầy xót xa.
Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ…Muốn thế hắn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “ Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…hai mắt gườm gườm trông gớm chết”….Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng” , “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nửa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”.
Nhưng điều đặc sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỉ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bi hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ…Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét , ốm đau và cô độc-cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau…Hắn khát khao làm hòa với mọi người…”
Từ con quĩ dữ, nhờ Thị Nở hay nói đúng hơn là tình thương của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một chất xúc tác kì lạ làm thăng hoa ở Chí bản chất người mà bấy lâu nay anh dường như quên lãng.
Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỉ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao.
Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước CMT8- Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sang tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nôn dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong caí xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản khánh vô cùng mạnh mẻ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buối sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
– Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngân ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. CP ngạc nhiên ,xúc động khi TN bê bát cháo hành sang cho CP.Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, CP đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hổi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỹ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của CP.
Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Khi trên văn đàn Việt Nam xuất hiện những con người như chị Dậu, anh Pha ở những năm ba mươi của thế kỉ trước, nhiều quan điểm cho rằng nạn nhân đáng thương nhát của xã hội thực dân – phong kiến đương thời là những con người bị bóc lột đến cùng của cải, sức lực và bị chà đạp đến cùng danh dự, tinh thần, quan điểm đó tưởng đã thành chân lí đúng đắn nhưng cho đến khi Chí Phèo của Nam Cao bước vào văn đàn với tất cả những gớm ghiếc rùng rợn trong hình hài nhân vật và những biến thái tàn tạ của nhân tính, ta mới dần dần nhận thức được: hình như cái đau đớn nhất của con người không phải là bị xã hội đày đoạ mà là bị cô lập và cự tuyệt Chí Phèo, một cách tự nhiên, đã để lại trong lòng ta những ấn tượng đậm nét cùng những niềm cảm thương day dứt về số phận của một con người sống trong cảnh không được làm người.
Sự xuất hiện của nhân vật Chí Phèo, cùng với biết bao nhiêu suy nghĩ hồi tưởng, hành động của hắn trong tác phẩm để lại cho ta ấn tượng đậm nét như thế, chính nhờ một phần sự xáo trộn tài tình những chi tiết truyện của Nam Cao. Đột nhiên bước vào giữa truyện, quay lại buổi đầu và tiến dần đến kết thúc, tưởng là xáo trộn mà lại rất tự nhiên. Chí Phèo xuất hiện không cần tô vẽ, chẳng phải rào trước đón sau, người ta cứ thấy hắn lừ lừ từ đầu đến cuối truyện; vẫn là hấn nhưng mỗi chi tiết ta lại cảm nhận khác nhau về biết bao nhiêu điều trong xã hội đương thời, về những đổi thay của con người trong dòng xã hội đen mờ ấy. Và cuối cùng, hình ảnh Chí Phèo cho ta thấy được tư tưởng nhân văn vô cùng cao đẹp của nhà văn Nam Cao, một tư tưởng mới lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam: trân trọng bản chất lương thiện của con người ngay khi họ đã rơi vào con đường lưu manh hoá.
Cuộc đời Chí Phèo có thể chia làm ba chặng đường. Như biết bao người nông dân trong xã hội trước, hắn đã có thể có một cuộc sống bình yên với một tâm hồn trong sáng, một phẩm cách lương thiện. Mồ côi từ thuở nhỏ, làm phu cho nhà Bá Kiến, rồi bị cái ghen bóng ghen gió của Bá Kiến hãm hại, bị đẩy vào nhà tù thực dân, cuộc đời Chí Phèo chuyển một bước ngoặt từ lúc ấy. Bá Kiến là thủ phạm đầu tiên trong việc lưu manh hoá một tâm hồn lương thiện. Nhà tù thực dân hoàn chỉnh quá trình tệ hại ấy. Cái bắt tay của cường hào và thực dân làm tan vỡ hàng nghìn viên ngọc “thiên lương” cao quý cua những con người thuộc tầng lớp dưới cùng của xã hội. Ta biết nói gì đây cho nhân vật Chí Phèo? Ta thương hại Chí là nạn nhân của một trò đôn mạt hèn hạ. Ta căm phẫn những kẻ đã cam tâm huỷ diệt nhân tính Chí. Ta đau đớn nhận ra khi thời gian mãn hạn tù thực dân kết thúc là Chí bước vào một nhà tù khác, nhà tù do chính xã hội tạo ra, biệt lập và đoạn tuyệt với những kẻ thoái hoá nhân phẩm như Năm Thọ, Binh Chức và giờ đây là Chí Phèo… Thế là bắt đầu giai đoạn mới khốc liệt và cay nghiệt của cuộc đời Chí.
“Hắn vừa đi vừa chửi” – đó là cách mà Nam Cao để nhân vật xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm. Đó cũng là cái hình ảnh đầu tiên mà người đọc tiếp nhận về Chí, mở ra giai đoạn thứ hai trong cuộc đời hắn – từ một tên lưu manh đến một kẻ tay sai – nỗi kinh hoàng của làng Vũ Đại. Chí Phèo bị lưu manh hoá không phải là hiện tượng đầu tiên trong văn học. Trước đó, Nguyên Hồng với Bỉ vỏ đã đề cập đến những thoái hoá biến chất trong tâm hồn con người gây ra bởi xã hội, nhưng chỉ dừng lại đó chứ không đi sâu vào bản chất của con người ấy. Cái mà tiểu thuyết – với lợi thế độ dài -của Nguyên Hồng chưa làm được thì truyện ngắn của Nam Cao với điểm xuyết qua những chi tiết nghệ thuật độc đáo, đã làm được – và làm rất thành công. Tiếng chửi của Chí Phèo có ý nghĩa gì? Thực ra tiếng chửi của nhân vật chính là phản ứng của hắn với toàn bộ cuộc đời. Trong chửi rủa lại bao hàm một khát khao: giá như có ai thèm chửi với mình thì còn hạnh phúc, bởi ít ra trong cuộc đời còn có kẻ quan tâm đến mình. Đằng này, chửi vang cả làng, vang cả trời mà nào có ai đếm xỉa gì đến hắn. Vậy là, hắn đã bị loại ra khỏi cuộc đời này rồi… Phải? Dưới vòm trời này người ta đã quen đi, hoặc không thèm để ý tới tên lưu manh Chí Phèo. Thần tình của Nam Cao là ở chỗ đã để cho bản chất của Chí thoáng hiện ra, cái tỉnh lồ lộ trong cái say mơ màng, ý thức đau đớn về bản thân chợt xuất hiện trong tiếng chửi vang trời. Còn ý thức về mình, còn khát khao sự yêu thương của đồng loại, nghĩa là còn bản chất con người. Hắn là người, mà sao không ai cho hắn cái quyền ấy?
Sau chi tiết tiếng chửi là những hành động liên tiếp của Chí Phèo: đến nhà Bá Kiến nằm ăn vạ, rồi ngày ngày với những thói lưu manh lại rạch mặt, ăn chực của thiên hạ.
“Con quỷ dữ của làng Vũ Đại” hiện ra với thứ hình hài gớm ghiếc: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chét”. Rồi lại “cái ngực phanh”, “chạm trổ rồng phượng”… Nam Cao phải đặt bút hai lần viết vào “trông gớm chết”, hẳn đó là cái nhận xét ban đầu của mọi người về tên Chí sau bảy năm tù tội, dần trở thành cái nhận định âm ỉ về con người này cho đến khi hắn chết. Không chỉ với nhân hình, bằng việc nghe theo Bá Kiến làm tay sai cho hắn để trừng trị những phe cánh khác trong cái làng Vũ Đại “trật tự – kỉ cương”, Chí Phèo vô tình trở thành công cụ đắc lực huỷ hoại nhân tính của mình, thành nỗi khiếp đảm cho xã hội. Cái vòng biệt lập mà xã hội tạo ra cho Chí Phèo cứ mỗi ngày mỗi chặt dần. Đến đoạn này, ta có thể giận Chí, trách Chí vì cái lợi cơm áo trước mắt mà làm tay sai cho kẻ ác, nhưng rồi ta chợt nhận ra: nếu không bởi cái mưu đồ nham hiểm của “cụ Bá” một lần nữa huỷ hoại tâm hồn Chí, thì làm sao có được một kẻ tay sai hung dữ, sẵn sàng giở thói côn đồ vì những cái lợi trước mắt. Nghĩ lại, Chí đáng thương hơn là đáng trách.
Câu chuyện diễn biến tới đó đủ thể hiện một quy luật: bần cùng hoá rồi dẫn tới lưu manh hoá trong một tầng lớp xã hội đương thời. Chuyện dừng ở đó cũng có thể chấp nhận được. Nhưng Nam Cao không để Chí Phèo cứ thế mà chết trong xó xỉnh, bụi rậm nào đó. Với tinh thần nhân đạo, Nam Cao đã để cho tâm hồn lương thiện của Chí Phèo lần đầu tiên thức tĩnh, từ cái đêm gặp Thị Nở.
Đó là đêm đầu tiên hắn được thức tỉnh bản năng làm một người đàn ông, và buổi sáng hôm sau là buổi sáng đầu tiên kể từ khi ra tù hắn được tận hưởng những gì đẹp đẽ và tươi tắn của thiên nhiên: tiếng chim ríu rít, ánh nắng rực rỡ, tiếng người nói chuyện râm ran. Hắn nhớ, hắn hồi tưởng. Đoạn hồi tưởng của hắn làm bao nhiều độc giả giật mình: Ôi! Hoá ra Chí vẫn còn là một con người, biết yêu ghét, biết vui buồn, biết nhớ và biết hi vọng nữa. Hắn cũng lo âu cho tuổi già và sự cô độc, hắn sợ mọi thứ diễn ra trong đầu hắn, trước mắt hắn. Ta thấy có gì đó hài lòng và hi vọng: hi vọng những cảm xúc trong Chí Phèo sẽ được duy trì mãi mãi cũng như Chí Phèo còn một con dường về với loài người.
Nhưng bản năng của một con người chỉ được đánh thức một cách trọn vẹn khi có chi tiết bát cháo hành của Thị Nở. Lần đầu tiên, Chí có cảm giác được mọi người quan tâm. Một sự so sánh diễn ra với một bên là người đàn bà độc địa đã dùng hắn thoả mãn thú vui của ả, một bên là người quan tâm duy nhất đến mình và thể hiện sự quan tâm ấy qua bát cháo dân dã mà đậm tình người. Tiếng nói của Chí Phèo, của Nam Cao đột ngột cất lên: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao!”. Lần đầu tiên cái khao khát sông của Chí Phèo được thể hiện mạnh mẽ nhất: phải sông trong xã hội, phải yêu và phải được xã hội quan tâm. Tình yêu mộc mạc của Chí Phèo và Thị Nở chớm nở và duy trì trong năm ngày hạnh phúc nhất của Chí.
Thị Nở cự tuyệt Chí Phèo! Đó là đòn đánh cuối cùng và nặng nề nhất của xã hội vào Chí! Đến đây, toàn bộ những hi vọng của Chí trở thành tuyệt vọng. Hắn uống rượu cho say, nhưng càng uống càng tỉnh. Như đã khẳng định từ đầu, cải tỉnh của Chí bao giờ cũng song song với cái say, nhưng nếu trước đầy nó bị cái say lấn át, thì bây giờ nó đau đáu hiện ra và thúc giục Chí trả thù. Ai? Ai đã khiến cho cuộc đời Chí lâm vào những đắng cay tủi nhục ấy, chính là lũ cường hào mà đại diện là Bá Kiến gian xảo, quỷ quyệt. Những câu nói cuối cùng đối với Bá Kiến cũng là tuyên bố hùng hồn của hạng người thấp bé nhất trong xã hội: “Tao muốn làm người lương thiện”. Nhát dao đâm chết Bá Kiến và nhát dao tự sát tuy khẳng định: con người như Chí Phèo khó mà sinh tồn trong xã hội khắc nghiệt đương thời, nhưng cũng là tuyên ngôn về sự nảy sinh về tâm hồn lương thiện của con người khi con người ấy đã về cõi chết.
Dẫu biết, sau Chí Phèo lại còn biết bao nhiêu kẻ bị bần cùng hoá rồi đi đến lưu manh hoá, và xã hội còn cự tuyệt những con người như vậy, nhưng qua nhân vật Chí Phèo ta vẫn tin tưởng rằng chồi non lương thiện sẽ thành cây cao. Và không có cái hạt giông lương thiện quằn quại mãi mới nảy mầm trong Chí Phèo thì làm sao có cây cao nhân cách trong Lão Hạc. Niềm cảm thương day dứt và tin tưởng trong lòng người đọc xin được song song tồn tại với tác phẩm Chí Phèo.
Nam Cao được mệnh danh là nhà văn của nền văn học hiện thực, ông sáng tác các tác phẩm chủ yếu viết về người nông dân Việt Nam, đây là tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc khi viết về một hiện thực đó là người nông dân bị bần cùng hóa trước cách mạng tháng tám.
Nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao là nhân vật phải chịu nhiều đắng cay, cực khổ do xã hội gây nên, họ bị bần cùng hóa về con người và tính cách, như Chí Phèo là một nhân vật như thế, Chí đã phải chiu đựng những bần cùng do xã hội gây nên, từ một nhân vật hiền lành, chất phác, đi làm thuê để lấy tiền sinh sống, khó khăn khi đi làm thuê nhà Bá Kiến nhưng lại bị người nhà này hành hạ, và biến chí thành một con người ác, người nông dân lương thiện, nhưng lại bị xã hội tha hóa, khi đọc tác phẩm, chắc hẳn không ai không có một thái độ xót thương và có thái độ cảm thông cho nhân vật này.
Chí đã phải chịu đựng nhiều khó khăn, và vất vả, xuất thân đã không giống như những người bình thường khác, bị bỏ rơi trong lò gạch cũ, chí phải chịu đựng từ nhỏ, không được ai chăm sóc, nuôi dạy, và rồi chí đã trở thành một người nông dân muốn sống bằng chính sức lao động của mình, nhưng lại không được, bởi Chí Phèo đang phải chịu đựng những cảnh cơ cực của sự đàn áp, bị tha hóa về con người và cả về tính cách của nhân vật.
Ở đây nhân vật Chí vừa là biểu hiện của cá nhân khi bị người khác áp bức bóc lột, mà nó còn biểu hiện cho cả một tầng lớp, luôn bị đàn áp cả về tinh thần lẫn thể xác, sự cơ cực đó đã biến chí từ lương thiện trở thành người không có nhân tính. Chí đã làm thuê với chính sức lao động của mình, nhưng rồi bao nhiêu công lao, mà Chí phèo cố gắng lại bị chính những con người có quyền lực trong tay đàn áp, đó là những con người, xấu xa, họ đại diện cho thế lực cầm quyền cho xã hội, chính những con người đấy đã làm tụt lùi đi chính xã hội của chúng ta, mỗi người chúng ta đều có thể thấy người nông dân phải chịu đựng rất nhiều những bất công.
Họ đàn áp, áp bức bóc lột sức lao động của con người, biến người nông dân thành những công cụ để họ có thể thực hiện mục đích của mình, chí đã là con người như thế, chí bị tha hóa và trở thành con người tàn ác, Chí bị nhà Bá kiến đưa vào tù, từ đây chí biến thành con người hoàn toàn khác, Chí bị tha hóa về đạo đức cũng như con người, tất cả những điều đó đã ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội, không chỉ Chí mà còn rất nhiều những người nông dân cũng rơi vào tình trạng như thế này, nhưng chí là một nhân vật đại diện và điển hình.
Chí rơi vào con đường bị tha hóa, thể xác đau khổ, tâm hồn như bị xé ra hàng trăm mảnh, với những đau đớn đó mà Chí đã rơi vào vòng pháp luật, Chí bị tha hóa khi trong tù, và chính bọn quyền lực đã đưa Chí trở thành một con người như thế này. Chí đã bị tha hóa tính cách do tính chất khắc nghiệt của xã hội, những điều đó làm cho cuộc đời của Chí lâm vào nhiều những lâm ly bi đát hơn. Chí đi tù và phải chịu những đàn áp của bọn cai trị, đặc biệt cái đói, cái khổ, nó cũng đang ám ảnh và bao vây lấy cuộc đời của Chí, Chí là một người nông dân vốn dĩ rất lương thiện, nhưng chỉ một cơn gió độc thổi vào làm cho cuộc đời của Chí chịu đựng rất nhiều những khó khăn, và tha hóa tính cách của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Chí phèo là đại diện của người nông dân để đấu tranh và tố cáo những thế lực tàn ác, luôn che khuất mắt Chí, tác giả đã thể hiện một hiện thực vô cùng nghiệt ngã, đó là bản ngã của con người trong cuộc sống, Chí đã thể hiện được tư tưởng của chính tác giả, khi sử dụng trong tác phẩm, Chí Phèo là hình tượng trung tâm của tác phẩm, đây là một hình tượng để tố cáo tội ác của thế lực cầm quyền trong xã hội phong kiến. Nhưng rồi nhờ có tấm lòng nhân đạo của tác giả, mà Chí được sống những tháng ngày hạnh phúc khi Thị Nở xuất hiện, hoàn cảnh họ gặp nhau cũng vô cùng, vào một hôm trăng thanh gió mát, hai người gặp nhau bên vườn chuối, chỉ với một hình ảnh éo le như thế này mà hai người nảy sinh tình cảm với nhau, tình cảm đó làm ấm lên tình người trong con người Chí, đây quả thực là một hoàn cảnh thể hiện tình cảm vô cùng chặt chẽ và nó mang đậm giá trị trong chính tác phẩm, với sự thể hiện đầy táo bạo, tác giả đã thổi ấm lên tình người vào Chí, làm cho Chí thức tỉnh, có thể nói, Chí đã trở nên nhân đạo và có tình người hơn, khi gặp Chí, trước thì Chí chửi đời, chửi đất, chửi người đã sinh ra hắn, nhưng nay Chí lại muốn trở thành một con người lương thiện.
Chí đã từng nói : “ Ai cho ta lương thiện”. Tất cả đang thể hiện những ước nguyện của Chí để mong muốn mình trở thành một con người bình thường. Cuộc đời của Chí cũng phải trải qua rất nhiều thăng trầm, từ một người nông dân hiền lành chất phác, nay lại trở thành một con quỷ dữ, hắn gặp ai cũng chửi, nhưng mọi người xung quanh không ai quan tâm đến hắn, họ đều nghĩ, hắn chửi nhưng trừ mình ra, và Chí còn chửi những người không chửi nhau với hắn. Đây là những chi tiết thể hiện Chí Phèo đang bị xã hội này tha hóa đi bản chất, của một con người lương thiện, hiền lành.
Chí là nhân vật được tác giả xây dựng để tố cáo xã hội phong kiến tàn ác, họ đang tha hóa và dồn con người hiền lành trở thành những con ác quỷ, tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi để Chí gặp Thị Nở và qua nhân vật này tác giả cũng thể hiện một sự tố cáo sâu sắc đối với chính những nhân vật được xây dựng trong tác phẩm.
Tác phẩm đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có hai giá trị nổi bật đó là giá trị nhân đạo, và sự tố cáo sâu sắc đối với xã hội phong kiến.