Văn bản ngữ văn 9

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Nguyễn Thúy Vy

Bàn về bài thơ bếp lửa của Bằng Việt

bui thi quynh chi
19 tháng 3 2018 lúc 18:53

Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà bố mẹ ông đều đi đánh giặc. Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sống bên bà. Ông đã sáng tác nên bài thơ “Bếp lửa” để nói lên tình cảm của ông giành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy chờn vờn, ấp iu… gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Và ngay lập tức, hình ảnh người bà đã hiện lên. Ở đây, bà không hiện lên như một bà tiên mà hiện lên trong trái tim của người cháu nhớ về người bà gian nan.

Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Trong tình cảnh nạn đói của đất nước, gia đình tác giả cũng không phải là ngoại lệ. Bố ông còn con ngựa để đi đánh xe là may mắn lắm. Nhưng cái không khí nghèo túng của toàn xã hội đã bao phủ tất cả. Gần hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả. Cái “cay” này không phải là cái “cay” do củi ướt, củi tươi mà cái cay đắng cuả những kỉ niệm đói khổ của nhiều người, trong đó có hai bà cháu tác giả.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương.

“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”

Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Nhà thơ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. “Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.

Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:

“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.

Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.

Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhỏ, lửa tưởng chừng đơn giản:

"Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"

Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.

“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”

Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.

“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”

“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.

“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.

Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:

“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.

Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà chaú đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Qua bài thơ, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Bếp lửa là hình ảnh đẹp nhằm gợi tả sự ấm áp của gia đình đối với mỗi người. Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng cuả ta.

Phạm Thu Thủy
27 tháng 5 2018 lúc 12:28

Nếu như Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỷ niềm về 1 thời thơ ấu trong tình thương yêu của bà. Thì với bằng việt lại là hình ảnh bếp lửa, nó là biểu tượng cho sự ấm áp, nồng đượm của tình bà cháu. Bếp lửa đã khơi gợi nhom len, lan tỏa, tan chảy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ, thao thức, đượm đùa … Hình ảnh bếp lửa thật giàu ý nghĩa cho nên mở đầu bài thơ chính là mở đầu cho nỗi nhớ của tác giả. Nỗi nhớ bà, nhớ chính cái bếp lửa thân quen ấy.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nộng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Những hình ảnh mở đầu vừa thực vừa hư như trong truyện cổ tích. Ngọn lửa nhỏ mờ trong sương sớm mai 2 hình ảnh lúc ẩn lúc hiện … tạo nên 1 quãng cãnh trữ tình làm lay động cảm xúc dạt dào của tác giả. Bếp lửa!.hình ảnh bếp lửa từ trong sâu thẳm tiềm thức khi ẩn khi hiện, khi mờ trong nỗi nhớ nôn nao của đứa cháu khi xa cách lâu ngày. Từ "ấp iu" được dúng rất sáng tạo. Đó là kết quả rút gọn và nối kết của bao từ " ấp lửa, chắt chiu, nâng niu " Đi với động từ này là tính từ " nồng đượm " Những điều đó đã nói lên rằng bếp lửa đã có 1 linh hồn, trờ thành bếp lửa ủ chứa tình thương của cháu đôi với cuộc đời lam lũ, trai qua " nắng mưa " của người Bà. Từ đây 2 hình ảnh, 2 nỗi nhớ đan xen nhau thành 2 bệ phóng cho cảm xúc nhà thơ thăng hoa audition. Rồi tác giả đã vận dụng 6 giác quan để làm sống lai đời thơ bé cùng sống với người bà chịu thương chịu khó.

Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Từ thị giác " chờn vờn sương sớm" cảm giác " ấp iu nồng đượm" và khứu giác " hum nhèm mắt cháu " để nói về đoạn đời đói khổ, đói đến mòn ỏi, hình ảnh ngừời bố đi đánh xe về khô rạc với con ngựa gầy còm. Tất cả đều hội tụ trong mùi khói hum đên ngẹt thở nao lòng cả tuổi thơ. Đó là 1 vòm trơi cổ tích nào cao rồng và nhồm màu lãng mãn trong thời thơ bé, hay nói đúng hơn khói bếp đã bao trùm suốt khung trời tuổi thơ của tác giả. Ấn tượng về cuộc sóng đói khổ và khói bếp nhà nghèo đã đọng lại và da diết trong kí ức của nhà thơ " nghĩ bây giờ sống mũi còn cay " Quá khứ tuổi thơ cay cực đã qua rồi mà dư vị 1 thời thơ bé vẫn ám ảnh Bằng Việt. Nghĩ lại trhấy xót thương trong hồi ức về bà … Tuy chỉ là 1 đoạn thời thơ ấi những thời gian ấy dài lắm những 8 năm.

Cháu cùng bà nhóm lửa

Tú hú kêu trên những tầm gần xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ ko bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế

Cuộc sống đói khổ đã làm vấy đen đi tuổi bé thơ hồn nhiên của tác giả. Chỉ mới 4 tuổi thôi mà trông già dặn làm rồi, già đi do 8 năm trời dài vô tận. 8 năm của biết bao khó nhóc, 8 năm của cái đói và cái vất vả đei đẳng nhưng chẳng thể nào thoát ra được. Từ bếp luẳ cho đến nhóm lửa thật logic. Đã góp phần tô đậm thêm cái vất vả ấy. Nhưng chính bên bếp lửa, trong cái ánh lửa ấm sáng của tình bà cháu. Đã hồng lên ngọn lửa kiên trì dai dẳng, niềm tin vào ngày kháng chiến thắng lợi, đất nước sẽ trở lại bình yên. Và bấy giờ lại xuất hiện thêm 1 hình ảnh gần gũi thân quen.

Tiếng tu hú!. Sóng đôi cùng bếpl luẳ nói gợi lên những liên tưởng gần xa. Đời bà và cháu chỉ quanh quẫn bên chiếc bếp gần gũi mà nghe tiêng tu hú kia sao giục giã như khắc khỏai những khao khác rộng dài đến 1 không gian xa xôi ở cuộc sống khác 1 không gian có những cánh đồng,có mùa quả ngọt trong mùa hè rực nắng, có cánh phượng đỏ, có mùa lúa chính … Nghe não lòng! Cái âm thanh quen thuộc ấy cứ nhắc đi, nhắc lại nhiều lần làm cho lòng tác giả càng trở nên tha thiêt, bồi hồi, đó là tiếng vọng gợi nhớ nơi thơi gian, năm tháng của kỷ niệm về gia đình về quê hương yêu thương, về những giây phút vắng bóng mẹ cha, chỉ còn bà. Cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong sự nuôi dưỡng yêu thương của bà.

Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học

Cháu ở cùng bà " từ ngữ thật hay và hàm xúc " bà bảo" " bà dạy" " bà chăm " vai trò của bà trong gia đình thật to lớn. Năm tháng đã trôi qua, thế mà bà vẫn khó nhọc vất vả nhóm bếp. Ngẫm nghĩ ngọn luẳ hồng và tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu nhỏ bỗng thốt lên câu nói giản dị những dạt dao tình yêu thương " chim tu hú kêu chi hoài " Câu thơ cảm thàn và câu hỏi tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà da diết. Cảm xúc cứ trào lên như sóng vỗ.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó ngủ

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hòai trên những cánh đồng xa

Cháu cảm thông với nỗi nhọc nhằn của bà, cháu đã dần khôn lớn trong vòng tay chở che ấm áp ấy. Cháu càng lớn càng cảm thấy xót thương cho mảnh đời bất hạnh của tu hú.Cháu muốn tu hú cũng được sự chăm sóc như bà đối với mình. Kỷ niệm cứ hiện dần lên và trong xúc cảm hình ảnh bà và hình ảnh bếp luẳ đã hòa quyền đồng nhất thành 1. Trong lòng cháu, 2 hình ảnh như 1. Tuy 1 mà 2. Để chỉ còn hiện lên trong tâm trí người cháu 1 xúc cảm mãnh liệt, 1 cái gì đó rất nồng đượm

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này kể nỏ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Năm ấy giặc đốt nhà bà!. Cuộc sống bà đã khổ rồi giờ còn khó khăn thêm. Nhưng vẫn giữ vừng niềm tin sắc đá. vẫn mang trong mình dòng máu bà mẹ Việt Nam anh hùng. Vẫn quan tâm ko muốn con lo lắng. Bà đã nén chịu đau thương để con mình chuyên tâm đánh giặc để đem lại hòa bình cho đất nước. Lúc ấy thì nhà bà có sá gì so với cuộc sống bình yên. Cho nên bà đã dặn bằng việt không được kể. Đến đây ta thấy thật cảm động trước hành đồng cao cả ấy. Chỉ cần ai ai cũng làm theo tấm gương bà thì ngày hòa bình độc lập không còn quá xa vời

Lận đận đời bà biết mấy nắng mứa

Mấy chục năm rồi đến tân bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sơm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Công lao của bà thật to lớn, ngay từ nhỏ cháu đã không được sống trong bàn tay chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ. Chỉ có bà là ngừơi quan tâm chăm sọc dạy dỗ cháu " bà bảo cháu nghe bà chăm cháu học " Công lao dưỡng dục của bà khó có bậc cha mẹ nào bì kiệp. Cứ thế bà đã sống cực khổ, lam lũ cả mấy chuc năm. Đời bà đã trải qua biết bao nhiều nắng mưa. Vậy mà cuộc sống của bà vẫn thế. Vẫn không có gì đổi thay. Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm. Dậy để làm việc, quét nhà, nấu ăn tất cả công việc nội trợ.

Cuộc đời bà thật vất vả. Chỉ vì đất nước đang có chiến tranh nên con cái bà đều thoát li đi kháng chiến, để lại đứa cháu bé bỏng ngây thơ cho bà chăm sóc, nuôi nấng. Trong bài thơ, khi cháu nhớ về bà thì luôn gắn liến với hình ảnh bếp lửa. Có lẽ hình ảnh bếp luẳ thân quen với cháu lắm với bà lắm. Mỗi sớm mỗi chiều bà đều nhóm bếp lửa, phải chăng bà muôn nhóm lên tình thương yêu nồng ấm, nhóm lên tình cảm yêu thương mà bà dành cho cháu. Trong những năm đói mòn đói mỏi ấy có phải chăng bà cháu đã dựa vào hơi ấm tình người, tình bà cháu, niềm tin hi vọng, và chính cái bếp lửa thân quen đễ mà sống, tồn tại, để vượt qua mọi khó khăn.


Các câu hỏi tương tự
Phu Thuy Kieu Linh
Xem chi tiết
my nguyễn
Xem chi tiết
mai thanh xuân
Xem chi tiết
Vũ Việt Thành
Xem chi tiết
dangkhoi
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Phụng
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Minh Châu
Xem chi tiết
Nguyễn Thúy Vy
Xem chi tiết
Lê Hoàng Mỹ Nguyễn
Xem chi tiết