Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 4
Số lượng câu trả lời 2
Điểm GP 0
Điểm SP 3

Người theo dõi (1)

Phạm Ngọc Anh

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

           Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê gốc ở thành phố Nam Định. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông sống chủ yếu ở Hải Phòng, trong một xóm lao động nhỏ nên được tận mắt chứng kiến những cảnh đời cơ cực. Nguyên Hồng là nhà văn của lớp người “dưới đáy” xã hội. Viết về thế giới nhân vật ấy, ông thường bày tỏ niềm yêu thương sâu sắc và thái độ trân trọng những nét đáng quý trong phẩm chất của họ. Văn xuôi Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đó là tiếng nói chân thành của một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.

            Những ngày thơ ấu là tập hổi kí viết về tuổi thơ bất hạnh của chính nhà văn. Tác phẩm gồm 9 chương, lần lượt đăng trên báo từ năm 1938 và được in thành sách năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả đã kể lại nỗi cay đắng tủi cực về tình yêu thương cháy bỏng đối với mẹ của đứa con sớm mồ côi cha. Thông qua cảnh ngộ éo le và tâm sự đau khổ của chú bé Hồng, tác giả còn cho ta thấy bộ mặt vô cảm lạnh lùng của loại người nhỏ nhen, đố kị đến mức độc ác trong xã hội phong kiến tư sản chỉ trọng đồng tiền. Những thành kiến cổ hủ của đám thị dân tiểu tư sản… đã cố tình cắt đứt tình mẫu tử thiêng liêng.

              Đoạn trích này có thể chia làm hai phần. Phần 1 là cuộc đối thoại giữa bà cô cay độc và chú bé Hồng. Ý nghĩ, cảm xúc của chú bé về người mẹ đáng thương. Phần 2 là cuộc gặp gỡ bất ngờ với mẹ và cảm giác vui sướng cực điểm của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.

               Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng ép, không có tình yêu. Người cha lớn tuổi và ốm yếu quanh năm lặng lẽ u uất bên bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung, xinh đẹp luôn khao khát yêu thương song đành phải chôn vùi tuổi xuân bên ông chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng lúc đầu sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng lạnh lẽo, thiếu vắng tiếng nói, tiếng cười.

                Rồi người cha chết vì bệnh. Người mẹ không chịu nổi sự o ép khắc nghiệt của nhà chồng nên đành bỏ lại con thơ, dứt áo ra đi. Để Hồng phải sống với bà cô nghiệt ngã, thâm hiểm. Như mọi đứa trẻ khác, bé yêu mẹ, thèm được ở bên mẹ nhưng cố giấu kín điều đó trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới hé lộ ra. Vì thế, lòng thương yêu mẹ của bé Hồng lại càng da diết.

                Mở đầu đoạn trích, qua giọng kể mộc mạc, tự nhiên, tác giả giúp người đọc hình dung ra cảnh ngộ thương tâm của bé Hồng: Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tồi mà vì tồi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Tiếp theo, nhà văn kể về thời gian xảy ra câu chuyện và hoàn cảnh sống của người mẹ tội nghiệp:

                Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ chỉnh còn bán cả vàng hương nữa. Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống bằng cách đó.

                Câu chuyện đã được khơi nguồn. Nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà ta cố tình nói cho bé Hồng biết cảnh ngộ thảm thương của mẹ cậu để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác:
          Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên cười hỏi:

- Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?

                Nụ cười giả tạo của bà cô chứa đựng ác ý rõ ràng. Nó như một mũi dao nhọn cố tình xoáy vào trái tim non nớt đang rớm máu của đứa cháu vừa mới mồ côi cha, lại phải chịu cảnh xa lìa mẹ. Lẽ ra, bé Hồng sẽ trả lời rằng muốn vì bé đang thiếu thốn tình mẫu tử, nhưng vốn nhạy cảm, bé lập tức nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô. Vì thế, bé cúi đầu không đáp.

                Không thể để tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến, bé Hồng đã trả lời: Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mẹ cháu cũng về. Cuộc đối thoại tưởng chừng sẽ chấm dứt sau lời đáp có vẻ bất cần mà thực ra đầy suy nghĩ của đứa cháu nhỏ, nhưng bà cô thâm hiểm nào đã chịu buông tha.

                Bà ta hỏi dồn, giọng vẫn ngọt nhạt: Sao lại không vào? Mẹ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu. Cùng với giọng nói cố tình làm ra vẻ tử tế nhưng đầy mỉa mai, châm chọc là hai con mắt long lanh nhìn chằm chặp vào đứa cháu mồ côi. Rõ ràng, bà ta muốn lôi kéo cậu bé Hồng vào một trò chơi độc ác đã toan tính sẵn. Mặc dù chú bé phản ứng bằng cách im lặng cúi đầu và khóe mắt đã cay cay, nhưng bà cô vẫn tiếp tục tấn công. Từ vẻ mặt đến lời nói, hành động của bà ta đểu toát ra vẻ giả dối và độc ác: Cô tôi liền vỗ vai tôi cười mà nói rằng: Mày dại quá, cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mẹ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ. Đến đây, bà ta không cần che đậy ác ý nữa mà còn tỏ rõ thái độ giễu cợt và nhục mạ. Quả là đau đớn khi vết thương lòng của đứa cháu lại bị chính cô ruột của mình săm soi, hành hạ: Hai tiếng “em bé” mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn. Nhân vật bà cô tàn nhẫn đến mức lạnh lùng, vô nhân đạo đối với đứa cháu đáng thương.

                Cho đến khi bé Hồng phẫn uất, oà lên khóc nức nở, bà cô vẫn cố tình hành hạ bằng những câu chuyện bịa đặt về hoàn cảnh bi đát của người mẹ nơi đất khách quê người. Đối lập với tâm trạng đau đớn, xót xa như bị gai cào, muối xát của đứa cháu là sự vô cảm đáng sợ của người cô: Cô tôi vẫn cứ tươi cười kể các câu chuyện cho tôi nghe. Tình cảnh túng quẫn, hình dáng gầy guộc, rách rưới của mẹ bé Hồng được bà cô thêu dệt, miêu tả tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ ràng.

                Cử chỉ vỗ vai, nhìn vào mặt đứa cháu rồi đổi giọng làm ra vẻ nghiêm nghị của bà cô chỉ là sự thay đổi cách thức tấn công. Bà ta tung ra miếng đòn hiểm cuối cùng. Khi thấy đứa cháu tức tưởi, phẫn uất đến cực độ thì bà ta lại giả vờ hạ giọng, tỏ vẻ ngậm ngùi, thương xót người anh đã mất. Đến đây, bản chất độc ác, giả dối, thâm hiểm và trơ trẽn của nhân vật bà cô đã được phơi bày toàn bộ. Tác giả muốn thông qua hình ảnh ấy để tố cáo hạng người tàn nhẫn, coi nhẹ tình máu mủ rụột rà trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ.

                Đối lập với ác cảm ghê gớm của bà cô là tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng dành cho người mẹ đáng thương. Nhận ra lòng dạ thâm độc của bà cô, bé Hồng càng thêm yêu quý mẹ. Diễn biến tâm trạng bé Hồng được nhà văn miêu tả theo diễn biến câu chuyện giữa hai cô cháu.

                Nghe bà cô hỏi, trong kí ức bé Hồng vụt hiện lên vẻ mặt rầu rầu và hiền từ của mẹ. Tất cả họ hàng bên nội có thể ruồng rẫy mẹ, kết tội mẹ, thóa mạ mẹ… nhưng với bé Hồng, mẹ vẫn là người mẹ yêu quý mà bé Hồng ra sức bênh vực và bảo vệ. Bé Hồng còn nhỏ lắm nên trước những lời kết tội mẹ mình, bé chỉ phản ứng bằng cử chỉ im lặng, cúi đầu mà lòng thắt lại, khóe mất cay cay. Bé nhận ra ngay những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt của bà cô. Bé không muốn tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của mình bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến.

                Đến khi mục đích mỉa mai, nhục mạ của bà cô đã phơi bày trắng trợn thì bé không nén nổi uất ức và oà lên khóc: Nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bên mép rối chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ. Bé khóc vì những lời cạnh khóe độc ác mà bà cô cứ cố ý nhắc đi nhắc lại. Bé khóc vì căm tức những thành kiến bất công của người đời đối với người mẹ tội nghiệp. Bé khóc vì thương xót người mẹ khốn khổ sợ dư luận chê cười nên phải lìa con, tha phương cầu thực và trốn tránh tìm nơi sinh nở.

                Hình ảnh cậu bé cười dài trong tiếng khóc thể hiện tâm trạng đau đớn cực điểm:

                Nhưng không phải vì thấy mẹ tôi chưa đoạn tang thầy tôi mà đã chửa đẻ với người khác mà tôi có những cảm giác đau đớn ấy. Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm…

                Những hình ảnh và động từ trong đoạn văn trên có sức gợi tả, gợi cảm rất lớn. Lúc này, tình thương mẹ của bé Hồng trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tình thương ấy đã biến thành sự phản kháng quyết liệt: Cô tồi chưa dứt câu, cổ họng tồi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.

                Trong tâm khảm bé Hồng lúc nào cũng in sâu hình bóng mẹ. Một buổi chiều, lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng liền đuổi theo, bối rối gọi. Đó là tiếng gọi bật ra từ trái tỉm thương nhớ mẹ không nguôi của chú bé tội nghiệp.

                Tác giả đã miêu tả hàng loạt cử chỉ thể hiện niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ. Vì chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe với mẹ thì mừng đến nỗi ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện thì bé đã òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Tiếng khóc trút bỏ bao nỗi,tủi cực, uất ức trong những ngày xa mẹ. Tiếng khóc sung sướng được gặp lại người mẹ thương yêu. Tiếng khóc của niềm khát khao tột độ tình mẫu tử.

                Nước mắt của bé Hồng lúc này khác hẳn nước mắt uất ức, căm giận khi trả lởi bà cô độc ác. Đây là những giọt nước mắt dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.

               Cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp nhau được tả bằng ngòi bút trữ tình đẫm nước mắt. Nhà văn đã vẽ nên bức tranh bằng ngôn ngữ về một thế giới của tình thương yêu đang bừng nở, hổi sình, tràn đầy những kỉ niệm dịu dàng và ấm áp tình mẫu tử… Cậu bé Hồng như bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực. Những lời nói cay độc của bà cô, những tủi cực chất chồng trong thời gian xa mẹ đã bị nhấn chìm giữa niềm hạnh phúc đang dâng tràn.
          Cảm giác sung sướng cực điểm của đứa con khi được ôm ấp trong lòng mẹ đã được Nguyên Hồng diễn tả bằng cảm hứng say mê cùng những rung động tinh tế lạ thường.

           Trong lòng mẹ, bé Hồng nhận ra rằng cảm giác ấm áp thiếu vắng bao lâu nay giờ đây lại mơn man khắp cả da thịt. Đó là những phút giây không thể nào quên của bé Hồng. Bé nhận ra hơi quần áo của mẹ, hơi thở của mẹ lúc đó thơm tho lạ thường. Bé nhận ra gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, mắt trong, da mịn, má hồng, vẫn đẹp như thuở nào. Bé cũng nhận ra người mẹ có một êm dịu vô cùng… Tất cả những cảm giác đó, những ý nghĩ đó chỉ có được khi đứa con hết lòng yêu thương mẹ.

              Được gặp mẹ là niềm hạnh phúc lớn lao, là niềm vui khôn xiết. Được sà vào lòng mẹ, bé Hồng mừng đến nỗi quên hết mọi thứ trên đời. Những lời thăm hỏi giữa hai mẹ con chỉ còn là một chuỗi âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không thể nhớ đó là những câu gì, chuyện gì. Bao trùm tâm trí bé là nỗi vui sướng khôn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay dịu hiền của mẹ sau bao ngày xa cách.

              Tình thương yêu mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn bé Hồng. Tình thương mẹ đã giúp bé Hồng có cách nhìn xác thực về con người và cuộc đời. Cho dù cảnh ngộ có éo le đốn mấy thì tình mẫu tử thiêng liêng vẫn không thể phai mờ. Chúng ta càng thêm thông cảm và quý mến bé Hồng, từ đó càng trân trọng tình mẫu tử.

                Trong lòng mẹ là một đoạn văn có tính chất hồi kí mà âm hưởng trữ tình thấm đẫm toàn bộ nội dung câu chuyện. Đặc biệt, đoạn cuối cùng là bài ca cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. Dòng cảm xúc chân thành như tuôn chảy dưới ngòi bút tài hoa của Nguyên Hồng. Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn với khả năng miêu tả tâm lí nhân vật tỉnh tế của ông gây ấn tượng mạnh, làm rung động lòng người. Thấm thìa nỗi khổ của những đứa con xa mẹ, chúng ta mới nhận ra rằng hạnh phúc thay những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ hiền.

Câu trả lời:

a. Quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra chậm chạp, trình độ đô thị hóa thấp.

            - Từ thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở nước ta, là kinh đô của nhà nước Âu Lạ.

- Vào thời kỳ phong kiến các đô thị Việt Nam hình thành trên những nơi có vị trí thuận lợi với các chức năng chính là hành chính, thương mại, quân sự. Xuất hiện các đô thị:Thăng Long, Phú Xuân, Hội An, Đà Nẵng, Phố Hiến từ thế kỷ XI-XVIII

            - Thời kỳ Pháp thuộc, công nghiệp chưa phát triển, hệ thống đô thị chức năng chủ yếu là hành chính, quân sự. Đến những năm 30 của thế kỷ XX mới có một số đô thị lớn được hình thành như Hà Nội, Hải phòng, Nam Định …

            - Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1954 quá trình đô thị hóa diễn ra chậm, các đô thị không có sự thay đổi nhiều.

- Từ năm 1954 đến 1975 đô thị phát triển theo hai xu hướng khác nhau : Ở miền Nam, Chính quyền Saigon đã dùng “Đô thị hóa” như một biện pháp để dồn dân phục vụ cho chiến tranh. Ở miền Bắc đô thị hóa gắn liền với quá trình công nghiệp hóa trên cơ sở mạng lưới đô thị có từ trước. Từ 1965 đến 1972 các đô thị bị chiến tranh phá hoại, quá trình đô thị hóa bị chựng lại.

            - Từ 1975 đén nay, quá trình đô thị hóa có chuyển biến khá mạnh, đô thị được mở rộng và phát triển nhanh hơn, đặc biệt là các đô thị lớn. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng của các đô thị (hệ thống giao thông, điện, nước, các công trình phúc lợi xã hội …) vẫn còn ở mức độ thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.

b. Tỉ lệ dân thành thị tăng.

            - Số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị còn thấp so với số dân nông thôn.

- Số dân thành thị đang có xu hướng tăng lên,  từ 12,9 triệu người (1990) lên 22,3 triệu người (2005).

- Tỉ lệ dân thành thị cũng tăng liên tục, từ 19,5 % (1990) lên 26,9 % (2005).

Mặc dù số dân thành thị tăng nhanh nhưng vẫn còn thấp hơn số dân nông thôn. 

c. Phân bố đô thị không đồng đều giữa các vùng.

            - Vùng có nhiều đô thị nhất gấp 3,3 lần vùng có đô thị ít nhất (Đông Nam Bộ và Trung du miền núi Bắc Bộ).

            -Số thành phố lớn còn quá ít so với mạng lưới đô thị (Trung du và miền núi Bắc Bộ : 9/167 ; Đồng bằng sông Hồng : 5/116 ; Đồng bằng sông Cửu Long : 4/132).

            - Chất lượng đô thị lớn chưa đảm bảo đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế (đặc biệt là các thành phố mới thành lập).