Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
Bao giờ lấp ngã ba Chanh
Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
Cam Phù Tải, vải Thúy Lâm
(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
Chim gà, cá nhệch, cảnh cau
Mùa nào thức ấy đượm màu thú quê.
(Ca dao Thanh Hà)
Chơi với quan Thanh Lâm
Như giáo đâm vào ruột.
Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.
(Chuông làng Châu, trống làng Ủng, mõ làng Đầu, ba làng ở gần nhau)
Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái.
Cô kia đội nón quai xanh
Có về tổng Giám với anh thì về
Tổng Giám có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát, có nghề quay tơ.
(Tổng Giám nay thuộc huyện Cẩm Giàng)
Côi Đông thâm vai, Côi Đoài thâm đít, Tự Đông hít bờ, Phượng Cáo rờ ao.
(Bốn địa phương thuộc thành phố Hải Dương. Côi Đông gồng gánh hàng xáo nên thâm vai, Côi Đoài cả ngày ngồi đan thúng nên thâm đít, Tự Đông, Phượng Cáo chuyên mò cua bắt ếch nên hít bờ, rờ ao)
Cơm làng Hoá, cá làng Từ
Áo quần Thủ Pháp, cửa nhà Châu Quan. (Phương ngôn xã Đoàn Kết, Thanh Miện)
Cơm Ma Há, cá Văn Thai, bánh gai Đồng Nền.
(Những món ngon ở các làng thuộc Cẩm Giàng, Nam Sách)
Đầu Trắm, đuôi Mè, giữa khe Tam Lạng.
(Đầu là làng Trắm, đuôi là khu vực Mè, Tam Lạng là ba làng Lạng (Bình Lãng): làng Đông, làng Thượng, làng Khổng Lý. Đều thuộc huyện Tứ Kỳ)
Đền thờ Nhân Huệ anh hùng
Vân Đồn vang dội, giặc Nguyên rụng rời.
(Ca dao về đền Gốm ở Chí Linh, thờ tướng Trần Khánh Dư)
Đường làng Dầu trơn như mỡ.
(Làng Dầu nay thuộc Cẩm Giàng)
Đường về Kiếp Bạc bao xa
Đường về Kiếp Bạc có cây đa bồ đề
Có yêu anh cắp nón ra về
Giàu ăn khó chịu, chớ hề thở than.
Gốm trông phong cảnh hữu tình
Càng nhìn càng thấy vẻ sinh tuyệt vời
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng Tám hội mừng đua chen.
Hải Dương tứ kiệt: nhất Đĩnh, nhì Minh, tam Kình, tứ Thắm.
Hến Cầu Tre, cá mè Lai Cách.
Hoàng Xuyên, Văn Nhuệ cũng giống thôn ta
Thủ Pháp, Lang Gia về ta cũng thế.
(Phương ngôn làng Châu Quan, xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện)
Kẻ Sặt đất lề quê thói
Kiệt sơn thất thập nhị phong
Phượng Hoàng đệ nhất trong vùng Chí Linh.
Làng Châu Khê tay vàng tay bạc
Cân Bái Dương giữ mực trung bình
Làng Cao thợ thiếc lọc tinh
Kim hoàn La Tỉnh nghề lành càng ghê.
(Các làng nghề kim hoàn, kim khí ở Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Tứ Kỳ)
Làng Hóp có bán lợn con
Làng Quao có đất sơn son nặn nồi.
(Làng Hóp, làng Quao thuộc huyện Nam Sách)
Lẳng lơ chẳng một mình tôi
Thanh Lâm, Đồng Sớm cũng đôi ba người
Nói ra sợ chị em cười
Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.
Một đồng một giỏ, không bỏ nghề câu.
(Phương ngôn làng Giám, Cẩm Giàng)
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.
(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
Muốn ăn cơm trắng, cá ngần
Lấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
Muốn làm ***** con cha
Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
Mưa từ làng Lý, làng Rào
Lòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.
(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.
(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho nhà nước)
Nước Thanh Mai đi hai về một.
(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)