Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hưng Yên , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 68
Số lượng câu trả lời 471
Điểm GP 54
Điểm SP 420

Người theo dõi (293)

huyhuy
blauceky swift
Hoàng phong
dương tiểu my

Đang theo dõi (1048)

nhân bibi
Vũ Kiều
Đạt Love Giang
FDC
FDC
Hoàng phong

Câu trả lời:

Một khoảng đêm của dân tộc đã hằn âu lên tâm trạng Tố Hữu- con người với tình yêu quê hương đất nước bao nỗi niềm. Và cũng chính mạng lưới dày đặc của tâm trạng Tố Hữu, ông đã kết lên từ cái bức bối và ngột ngạt của lịch sử xã hội lúc bấy giờ là một bức tranh sinh động, có hồn nhưng cũng đầy ắp nỗi niềm, cảm xúc. Đó là bức tranh mùa hè, bức tranh tâm trạng trong " Khi con tu hú" và nổi bật trong bài thơ là hình tượng chiến sĩ cách mạng với tình yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên, yêu tự do, khao khát tự do.
" Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không..."
Những âm thanh thật là náo nức, rạo rực. Tiếng chim tu hú" gọi bầy" lảnh lót trên nền nhạc rộn rã của những tiếng ve ngân. Trên trời cao có" đôi con diều sáo lộn nhào từng không". Cùng với những âm thanh sống động, rộn ràng, màu sắc là hương thơm. Hương thơm của đồng lúa chín, hương thơm ngọt ngào của những trái cây dần chín, hương thơm từ những bắp rây đã vàng hạt. Hình ảnh thơ mà tác giả đã sử dụng thật rực rỡ, tươi sáng, táo bạo, đạm chất nhạc giàu chất họa. Với những tính từ chỉ màu sắc rực rỡ tươi sáng : nắng đào, vàng , xanh ... tác giả đã dùng để nhấn mạnh một mùa hè tươi tắn nồng nàn, say mê, rực rỡ sắc màu, ngọt ngào bung nở trong không gian tự do. Đó là một bức tranh đẹp về mùa hè. Nhưng khó có ai đoán được đó lại chính là một bức tranh trong tâm tưởng của người chiến sĩ, người tù cách mạng. Đó là một cuộc vượt ngục bằng ý chí. Phải chăng đấy chính là tình yêu quê hương, cuộc sống, yêu đời, sự gắn bó sâu sắc tuôn chảy mãnh liệt trong tâm hồn tinh tế nhạy cảm của nhà thơ Tố Hữu. Là khát vọng tự do cháy bỏng.
"...Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!"
Khi nghe hè dậy bên lòng, khi nghe tiếng gọi của tự do thôi thúc để rồi người tù cách mạng, người chiến sĩ ấy bừng dậy tình yêu đời và khát vọng tự do đạp tan cánh cửa ngục tù. Khao khát đó biến thành hành động phá cũi, sổ lồng để được hòa mình cào cuộc sống tự do, cuộc sống đấu tranh của dân tộc, thoát ra khỏi cái không gian tù túng chật hẹp, bức bối đã giam cầm con người chiến sĩ đầy tình yêu, nghị lực, kiên cường lòng đấu tranh dành lấy tự do cho mình, cho dân tộc. Cái tôi cá nhân vận động khỏe khoắn hòa trong cái ta của cộng đồng để đấu tranh. Nhưng sao khi bài thơ khép lại vẫn lại là âm thanh ấy, âm thanh tiếng chim tu hú" cứ" kêu. Diễn tả âm thanh tự do kêu hoài kêu mãi không dứt, thôi thúc tiếng gọi tự do mãnh liệt hơn bao giờ hết, kêu mãi không ngừng nghỉ. Thế giới của sự tù tội, giam cầm vốn luôn đối lập với thế giới của tự do, nhưng lại được tác giả đặt cạnh nhau, so sánh bởi cùng một thước đo tạo nên sự đối lập, tương phản gây tính chất gay gắt mãnh liệt.
Trong bài thơ không nói về nỗi khổ vật chất của người tù cho thấy người chiến sĩ cách mạng đã vượt lên những nỗi đau, những thiếu thốn về vật chất. Và nỗi đau nhàu xé tâm can của người tù ấy là nỗi đau của những người mất nước, mất đi cuộc sống tự do yên bình, mong muốn được đạp đổ mọi thứ" phá cũi sổ lồng" để chiến đấu cho cách mạng, đập tan cái chế độ dã man đang cầm tù cả một dân tộc, một đất nước. Căm phẫn, uất ức, vật vã cao độ đó là tâm trạng của người tù cách mạng. Tại sao vậy? Có lẽ là vì tình yêu cháy bỏng, tình yêu tha thiết mãnh liệt của người chiến sĩ đối với quê hương của mình khi nghĩ tới những lầm than cơ cực của dân tộc, đất nước lúc bị cướp mất sự tự do chăng. Đúng là một con người đáng được trân trọng, ngợi ca và là tấm gương yêu nước của mỗi con dân trên đất nước Việt Nam này.
Tố Hữu đã gieo rắc vào lòng người đọc vẻ đẹp của tình yêu quê tha thiết, đằm thắm, sâu sắc, mãnh liệt trong lòng người chiến sĩ cách mạng-Tố Hữu nói riêng và những anh hùng chiến sĩ dân tộc nói chung.

Câu trả lời:

Hiện nay khi cuộc sống của con người chúng ta ngày càng phát triển, nền kinh tế ngày càng được nâng cao, những hoạt động của con người càng ngày càng tác động nhiều hơn tới môi trường.

Đặc biệt là các ngành phát triển công nghiệp, khói bụi, chất thải từ các ngành công nghiệp thải ra không khí gây ô nhiễm bầu khí quyển, ô nhiễm tầng ozon và nguồn oxy trong không khí của chúng ta.

Ô nhiễm môi trường đang vấn đề lớn của cả thế giới của chúng ta, và là thách thức của toàn thể loài người trên toàn thế giới.

Vậy ô nhiễm môi trường là gì? Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi khí hậu dẫn tới những tình trạng hạn hán, lũ lụt của thời tiết, làm cho thời tiết nóng lên hoặc lạnh đi một cách bất thường.
Sự ô nhiễm môi trường chính là sự thay đổi thời tiết, khí hậu, có thể do con người gây ra.

Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển công nghiệp, làm cho nguồn nước ngầm cũng bị ô nhiễm bởi nhiều công ty sản xuất công nghiệp tìm cách trốn tránh trong việc xử lý rác thải công nghiệp trước khi đưa ra môi trường, làm cho nguồn nước bị ô nhiễm nặng.

ô nhiễm môi trường

ô nhiễm môi trường

Như vụ công ty sản xuất thép Fomosa, đã làm ô nhiễm môi trường biển, khiến cho nguồn nước biển bị ô nhiễm, cá chết hàng loạt, dịch vụ du lịch biển không phát triển được vì mọi người không ai dám tắm biển vì sợ nhiễm chất ung thư da.

Ô nhiễm rác thải sinh hoạt trong những khu dân cư, trong thành phố, nhiều người vứt rác bừa bãi làm mất vệ sinh môi trường, nhiều công ty vệ sinh môi trường lại đưa rác thải đi vứt lại ở những bãi đất trống gần nhà dân. Nhiều người dân sống gần khu vực đổ rác phải ăn cơm mắc màn vì chỉ cần để mâm cơm ra bên ngoài tâm một phút là ruồi nhặng đã bu đen kịt cả mâm cơm, không ai còn dám ăn.

Ô nhiễm môi trường chính là hậu quả do con người gây ra, làm ảnh hưởng tới quy luật tuần hoàn của tự nhiên dẫn tới sự biến đổi khí hậu, gây ra ô nhiễm nghiêm trọng. Và hậu quả cuối cùng lại chính con người chúng ta phải gánh chịu, khi mà khí hậu ngày càng nóng lên, khiến cho băng của vùng Bắc cực có nguy cơ tan chảy.

Trong tương lai khi khối băng này tan ra thì một số tỉnh thành nước ta sẽ bị xóa sổ bởi nước biển như tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng ở khu vực miền Bắc nước ta.

Rồi hiện tượng lạnh giá, tuyết rơi phủ trắng đỉnh núi mẫu sơn, nhiệt độ hạ xuống thất thường khiến người dân không kịp trở tay. Nguồn không khí bầu khí quyển ô nhiễm nghiêm trọng bởi khói bụi, khói ô tô xe máy, chất thải khí thải nhà máy xí nghiệp là gia tăng các căn bệnh về đường hô hấp.

Nguồn nước ngầm bị ô nhiễm trầm trọng nhiều nơi nhân dân không có nước để dùng phải mua nước từ vùng khác với giá vô cùng đắt đỏ, để sử dụng trong sinh hoạt bởi nguồn nước ngầm bị ô nhiễm không thể nào sử dụng ăn uống được.

Nguồn nước biển ô nhiễm khiến người ngư dân không thể đánh bắt hải sản bán được, phát triển du lịch gặp khó khăn, vì nước biển chứa chất gây ung thư nên khách du lịch không tới tắm biển, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế, công ăn việc làm của người dân lao động.

Ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng rất lớn đến sự sống của con người ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Những năm gần đây, thiên tai, hạn hán lũ lụt, sóng thần, động đất đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều người, gây ra nhiều hậu quả nặng nề về người và của cho con người trên toàn trái đất.

Nhiều căn bệnh lạ xuất hiện khiến cho nên y học chưa tìm ra cách chữa trị. Đó cũng là do sự ô nhiễm môi trường biến đổi khí hậu gây ra.

Việc ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nhức nhối khiến cho cả thế giới cần chung tay giải quyết hậu quả và ngăn chặn sự biến đổi khí hậu. Chính vì vậy, chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ môi trường, chính là bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của chính mình.

Câu trả lời:

Học tập là công việc suốt đời đối với mỗi một con người. Lê-nin từng nói: "Học, học nữa, học mãi". Nhưng phải học như thế nào cho đúng? Dân gian ta đã từng nhắc nhở: "Học đi đôi với hành". Chúng ta cần hiểu như thế nào về phương pháp học này?

Học là quá trình chúng ta tiếp thu kiến thức của nhân loại. Nội dung học là các kiến thức nhân loại được chọn lọc (được phân loại thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) cùng với đó là các kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Quá trình này nhằm đến một cái đích là làm phong phú những hiểu biết của con người, giúp phát triển vẹn toàn nhân cách và đặc biệt việc học trang bị cho mỗi chúng ta những kiến thức, những kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp để từ đó tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội đem đến lợi ích cho bản thân, cho gia đình và cho đất nước. Như vậy, “học” ở đây được hiểu là gắn với vấn đề lí thuyết. Người học giỏi thường được hiểu là người nắm được nhiều nội dung lí thuyết.

Bên cạnh đó, "hành" là thực hành, là quá trình vận dụng kiến thức vào cuộc sống, là đem những cái đã học được vào thực tế để kiểm tra độ đúng sai hay để làm sinh động nó. “Hành” có nhiều cấp độ: bắt chước người khác làm, làm lại theo những gì còn lưu trong trí nhớ, sáng tạo những cách thức hoạt động mới,... "Hành" được đến đâu, điều đó còn tùy thuộc vào tri thức mà bạn học được phong phú sinh động và sâu sắc đến bao nhiêu.

Trong việc học hàng ngày, tại sao lại cần “Học đi đôi với hành”? Vì chúng là hai mặt thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau.

Như ta đã biết, nếu chỉ biết học lý thuyết mà không hề biết đến thực hành thì những lý thuyết ta học cũng chỉ là những tri thức chết, chúng không có tác dụng đối với đời sống. Đó là trường hợp nhiều học sinh Việt Nam đi thi học sinh giỏi quốc tế các môn khoa học tự nhiên. Chúng ta làm lí thuyết rất xuất sắc, thậm chí đạt điểm tuyệt đối. Nhưng khi thực hành, trong khi bạn bè các nước làm rất tốt thì chúng ta loay hoay hàng giờ, thậm chí phải bỏ cuộc. Đó cũng là trường hợp nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng hoàn toàn không có kĩ năng sống thực tế. Họ không biết ứng xử sao cho hợp hoàn cảnh giao tiếp, không nấu được một bữa cơm, không tự viết được một lá đơn xin việc,... học như vậy chỉ phí phạm thời gian, công sức tiền bạc bởi thực tế học như vậy để làm gì nếu không thể ứng dụng vào đời sống? Như vậy, chúng ta không chỉ học lý thuyết mà còn phải biết áp dụng những lý thuyết đó phục vụ thực tế.

Mặt khác, có lúc những lý thuyết chúng ta đã được học khi đưa vào thực hành lại gặp phải rất nhiều khó khăn. Vì vậy, chúng ta phải biết kết hợp vừa học lý thuyết và thực hành nhuần nhuyễn những điều đã học. Có như vậy, thì những kiến thức chúng ta được học sẽ trở nên sâu hơn, giúp chúng ta nắm vững nguồn tri thức. Nếu chỉ học mà không thực hành thì tất cả cũng chỉ là lý thuyết. Chính vì vậy, học phải đi liền với thực hành, có như vậy ta mới có thể đem hết những gì đã học cống hiến phục vụ cho đất nước.

“Học đi đôi với hành” là lời của người xưa đúc kết nhưng vẫn còn là bài học lớn của hôm nay và mai sau dành cho những ai thực sự cầu tiến bộ.

Câu trả lời:

1. Khái niệm nhân hóa

Nhân hóa là phép tu từ gọi hoặc tả đồ vật, cây cối, con vật… bằng các từ ngữ thường được sử dụng cho chính con người như suy nghĩ, tính cách giúp trở nên gần gũi, sinh động, hấp dẫn, gắn bó với con người hơn.

2. Các kiểu nhân hóa

Thông thường nhân hóa có 3 kiểu chính gồm có:

– Sử dụng các từ ngữ thường gọi con người dùng gọi vật.

– Sử dụng các từ ngữ chỉ tính chất, hoạt động của con người để chỉ hoạt động, tính chất của vật.

– Dùng các từ ngữ xưng hô với vật như với con người.

3. Ví dụ về nhân hóa

Sau khi các em tìm hiểu về khái niệm cùng với một số kiểu nhân hóa thường dùng hãy đến với phần đưa ra ví dụ, tham khảo các ví dụ bên dưới rồi hãy tiến hành làm phần luyện tập trong sách giáo khoa dễ dàng hơn các em nhé.

Ví dụ: Quê em có dòng sông uốn lượn qua cánh đồng lúa chín.

=> Nhân hóa tả hình dáng của con sông như biết uốn lượn.

Ví dụ: Trên cung trăng chị Hằng đang vui đùa cùng với chú Cuội.

=> Dùng từ ngữ gọi con người “chị” để gọi vật “mặt trăng”.

Ví dụ: Bến cảng lúc nào cũng nhộn nhịp, tàu mẹ, tàu con nối đuôi nhau vào bến cảnh.

=> “nhộn nhịp”, “tàu mẹ”, “tàu con”, dùng nhân hóa nên bến cảnh trở nên sinh động, gần gũi giống như con người đang lao động.

Câu trả lời:

CÁC KIỂU CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT

TOP

1. Từ đơn: là những từ được cấu tạo bằng một tiếng độc lập. Thí dụ: Nhà, xe, tập, viết, xanh,đỏ, vàng, tím,...

- Xét về mặt lịch sử, hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có nguồn gốc thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Hán, tiếng Pháp, Anh, Nga,...

- Xét về mặt ý nghĩa , từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt của đời sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia đình, xã hội , các số đếm,...

- Xét về mặt số lượng, tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy(Theo thống kê của A.Derode, từ đơn chiếm khoảng 25% trong tổng số từ tiếng Việt) nhưng là những từ cơ bản nhất, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên quan đến đời sống và cấu tạo từ mới cho tiếng Việt.

2. Từ ghép: là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa.

Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, có thể phân từ ghép ra làm 2 loại chính:

2.1. Từ ghép đẳng lập:

Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung là:

- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng.

- Xét về mặt quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy:

+ Hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau, trong đó:

* Có thể có một yếu tố thuần Việt và một yếu tố Hán Việt. Ví dụ: bạn hữu, bụng dạ, máu huyết,...

* Có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt. Ví dụ: tư duy, thổ địa, tiên lợi, cốt nhục,...

* Có thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt. Ví dụ: đợi chờ, máu mủ, xinh đẹp,...

* Có thể có một yếu tố toàn dân và một yếu tố vố là từ địa phương. Ví dụ:Chân cẳng, bát đọi, chợ búa,...

+ Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau. Thí dụ: thương nhớ, nhà cửa, áo quần, ăn uống, đi đứng,...

+ Hoặc các thành tố trái nghĩa nhau. Thí dụ: đầu đuôi, sống chết, già trẻ, gần xa, trong ngoài,...

- Xét về mặt nội dung, nói chung, từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp ( tức biểu thị sự vật, tính chất hay hành động chung, mang tính chất khái quát ).

- Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Như ta sẽ thấy, những trường hợp một trong hai thành tố phai mờ nghĩa xảy ra phổ biến trong từ ghép đẳng lập.

- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của từ ghép, có thể phân từ ghép đẳng lập thành ba loại nhỏ là từ ghép đẳng lập gộp nghĩa, từ ghép đẳng lập đơn nghĩa và từ ghép đẳng lập hợp nghĩa.

+ Từ ghép đẳng lập gộp nghĩa: bao gồm những từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A+B. Tức là loại mà nghĩa của từng thành tố cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát chung của cả từ ghép, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của từng thành tố. Chẳng hạn, từ quần áo chỉ đồ mặc nói chung, trong đó có cả quần lẫn áo.

Một số ví dụ về từ ghép gộp nghĩa: điện nước, xăng dầu, tàu xe, xưa nay, chạy nhảy, học tập, nghe nhìn, thu phát, ăn uống, tốt đẹp, may rủi, hèn mọn,thầy trò, vợ con...

+ Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bao gồm từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A hoặc B. Tức là loại mà nghĩa khái quát chung của cả từ ghép tương ứng với ý nghĩa của một thành tố có mặt trong từ. Ví dụ: núi non, binh lính, thay đổi, tìm kiếm,...

Do nghĩa của cả từ ghép tương đương với nghĩa của một thành tố nên thành tố còn lại có xu hướng bị mờ nghĩa hoặc bị mất nghĩa. Yếu tố này sẽ làm chỗ dựa cho ý nghĩa của cả từ ghép. Có thể nói sự mờ nghĩa của núc (bếp núc), búa ( chợ búa), pheo ( tre pheo) ... chính là kết quả cực đoan của mô hình đơn nghĩa này.

Một số ví dụ về từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bếp núc, chợ búa, đường sá, heo cúi, áo xống, ăn mặc, ăn nói, viết lách, ...

+ Từ ghép đẳng lập hợp nghĩa: bao gồm những từ ghép nằm trong mô hình ngữ nghĩa AB > A+B . Tức là loại mà ở đó nghĩa của cả từ không phải chỉ là phép cộng đơn thuần nghĩa của các thành tố, mà nó là sự tổng hợp nghĩa của các thành tố kèm theo sự trừu tượng hóa dựa trên cơ sở liên tưởng ẩn dụ hay hoán dụ. Do đó nghĩa của cả từ mới hơn so với nghĩa của từng thành tố. Thí dụ, đất nước không phải chỉ đất và nước nói chung hay chỉ đất hoặc nước, mà hai yếu tố được hợp lại để chỉ lãnh thổ của một quốc gia trong đó có những nét tiêu biểu là đất và nước. Trường hợp non sông, sông núi, sơn hà cũng vậy. Một ví dụ khác, ruột thịt không phải chỉ ruột hay thịt nói chung mà cả hai hợp lại hợp lại để chỉ quan hệ máu mủ, huyết thống. Hay gan dạ để chỉ sự mạnh mẽ, không lùi bước trước nguy hiểm cũng là một trường hợp tương tự.

Chú ý về trật tự các thành tố trong từ ghép đẳng lập.

Bàn về từ ghép đẳng lập, người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các thành tố. Tuy nhiên cần chú ý là khả năng ấy không xảy ra phổ biến đối với toàn bộ lớp từ ghép đẳng lập, và không phải xảy ra vô điều kiện trong mọi trường hợp. Về hiện tượng này có thể nêu mấy nhận xét chung như sau:

+ Có thể hoán vị được đối với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp không có yếu tố Hán - Việt. Thí dụ: quần áo - áo quần, rủi may - may rủi, tươi tốt - tốt tươi,...

+ Khả năng hoán vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa, đặc biệt đối với trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa.

+ Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu:

* Không được phép làm thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu. Ví dụ: đi lại - lại đi ; cơm nước - nước cơm khác nghĩa.

* Không đi ngược lại tập quán cổ truyền của dân tộc. Ví dụ: nam nữ - nữ nam; ông bà - bà ông, anh em - em anh, vua quan - quan vua,... không hoán vị được.

* Không tạo nên những trật tự khó đọc. Chẳng hạn: sửa chữa dễ đọc hơn chữa sửa.

2.2 Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo nằm ở vị trí phụ thuộc vào một thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này thường có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Loại này có những đặc điểm sau:

- Xét về mặt ý nghĩa, nếu từ ghép đẳng lập có khuynh hướng gợi lên các sự vật, tính chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo từ này có khuynh hướng nêu lên các sự vật theo mang ý nghĩa cụ thể.

- Trong từ ghép chính phụ, yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ tường được dùng để cụ thể hóa loại sự vật, hoạt động hoặc đặc trưng đó.

- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa, có thể chia từ ghép chính phụ thành hai tiểu loại:

+ Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó yếu tố phụ có tác dụng phân chia loại sự vật, hoạt động, đặc trưng lớn thành những loại sự vật , hoạt động, đặc trưng, cụ thể. Vì vậy có thể nói tác dụng của yếu tố phụ ở hiện tượng này là tác dụng phân loại. Thí dụ :

· máy may, máy bay, máy bơm, máy nổ, máy tiện,...

· làm việc, làm thợ , làm duyên, làm ruộng, làm dâu,...

· vui tính, vui tai, vui mắt, vui miệng,...

Chú ý, ở kiểu từ ghép này trật tự của các yếu tố trong từ ghép thuần Việt, hoặc Hán - Việt Việt hoá khác từ ghép Hán - Việt. ở hai trường hợp đầu, yếu tố chính thường đứng trước, ở trường hợp cuối, yếu tố phụ thường đứng trước. Ví dụ:

· vùng biển, vùng trời, xe lửa, nhà thơ,...

· hải phận, không phận, hỏa xa, thi sĩ,...

+ Từ ghép chính phụ sắc thái hóa: là những từ ghép trong đó thành tố phụ có tác bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho cả từ ghép này khác với thành tố chính khi nó đứng một mình như một từ rời, hoặc khiến cho từ ghép sắc thái hóa này khác với từ ghép sắc thái hóa khác về ý nghĩa. Thí dụ , so sánh xanh lè với xanh và xanh biếc, ...

3. Từ láy:

Cho đến nay, nhiều vấn đề của từ láy vẫn là những vấn đề còn để ngỏ.Về phương thức cấu tạo của từ láy, tồn tại hai ý kiến khác nhau: a.Từ láy là từ được hình thành do sự lặp lại của tiếng gốc có nghĩa ; b. Từ láy là từ được hình thành bằng cách ghép các tiếng dựa trên quan hệ ngữ âm giữa các thành tố. Theo ý kiến thứ nhất chỉ mới có thể lí giải được một số từ láy xác định được tiếng gốc, bên cạnh những từ ấy còn rất nhiều từ hiện không xác định được tiếng gốc (ví dụ: bâng khuâng, lẩm cẩm, bủn rủn, lã chã,...), hoặc những từ có dạng láy nhưng thực ra chúng vốn được tạo ra từ phương thức ghép ( ví dụ: hỏi han, chùa chiền, dông dài, tang tóc,...). Nhìn nhận từ láy theo ý kiến thứ hai lại không có tác dụng giúp ta thấy được những nét độc đáo về mặt ngữ nghĩa của kiểu cấu tạo từ này, không thấy được nét riêng của dân tộc ta trong việc sáng tạo những từ ngữ mới nhằm định danh sự vật mới một cách tiết kiệm mà lại có khả năng miêu tả sinh động, biểu cảm nhất. Có thể nói ý kiến thứ nhất đã nêu ra được những từ láy chân chính trong tiếng Việt. Tuy nhiên cần nhận thức được rằng ngôn ngữ không đứng yên mà luôn vận động, thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Trong quá trình đó, những từ ghép có dạng láy và những từ láy chân chính đã hòa lẫn vào nhau mà ngay cả những nhà ngôn ngữ học cũng khó phát hiện và phân biệt được chúng trong nhiều trường hợp. Gần đây trong nhiều bài viết, các tác giả đã khôi phục được nghĩa của nhiều từ ghép có dạng láy bị mất nghĩa. Dẫu sao những từ này hiện nay cũng đã mang nhiều đặc điểm của từ láy ( về mặt ngữ nghĩa cũng như ngữ âm). Trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đầy đủ hơn nữa, có thể xem chúng là từ láy. Do vậy, đứng tên quan điểm đồng đại có thể nói từ láy là những từ gồm nhiều tiếng, giữa các tiếng có quan hệ ngữ âm có tác dụng tạo nghĩa.

3.1. Ðặc điểm của từ láy:

- Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, biểu hiện ở một trong các dạng sau :

+ Hoặc giống nhau ở phần phụ âm đầu. Thí dụ: vắng vẻ, vui vẻ,...

+ Hoặc giống nhau ở phần vần. Thí dụ: co ro, lác đác, lung túng,...

+ Hoặc giống nhau ở cả phần phụ âm đầu lẫn phần vần. Thí dụ: đo đỏ, hao hao,...

+ Riêng thanh điệu, ở từ láy đôi thường tuân theo quy tắc biến thanh sau:

Cao

_

/

?

Thấp

\

.

~

- Mối quan hệ về mặt ngữ âm trong từ láy tạo nên sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa ( Hoàng Văn Hành), tức là tạo ra một thứ ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa ấn tượng mà người bản ngữ tỏ ra nhạy cảm với nó hơn so với người không phải thuộc bản ngữ. Ðó là lí do giải thích vì sao trong tiếng Việt tồn tại nhiều từ láy rất khó lòng giải nghĩa, nhưng người bản ngữ nói chung vẫn cảm nhận được cái hay, vẫn dùng đúng và hiểu đúng, nhưng khó có thể giải thích tính đúng, tính hay đó cho người ngoại quốc học tiếng Việt. Chính vì vậy ở những từ ghép có các thành tố còn rõ nghĩa và có hiện tượng lặp âm ngẫu nhiên như tươi tốt, nam nữ, mặt mũi, hầm hố,...nhưng người bản ngữ không hề nghĩ đến chúng như là từ láy. ở đây ý nghĩa của từng thành tố trong từ còn quá rõ, chúng đã cản trở việc tạo ra một thứ ý nghĩa vốn mơ hồ, yếu ớt, mặc dù khá ổn định. Và ngược lại, khi trong từ ghép đẳng lập có xuất hiện yếu tố mờ nghĩa, người ta dễ cảm thụ chúng như là từ láy. Ðó là lí do giải thích tại sao những từ chùa chiền, hỏi han, đất đai, chim chóc, tuổi tác được nhiều người lĩnh hội như là từ láy.

- Từ đó dẫn đến đặc điểm thứ ba, trong từ láy phải có ít nhất một yếu tố không độc (mờ nghĩa hay mất nghĩa). Như vậy, từ láy trong tiếng Việt có thể xảy ra hai trường hợp: a - Từ láy có một yếu tố độc lập ( hay tiếng gốc) và một yếu tố không độc lập ( hay tiếng láy); b - Từ láy có cả hai yếu tố đều không độc lập ( hay từ láy không có tiếng gốc).

3.2 . Phân loại từ láy:

Kết hợp tiêu chí số lượng tiếng với các bộ phận giống nhau trong từ, có thể phân từ láy thành các loại sau:

- Từ láy đôi là từ láy gồm có 2 tiếng. Có các dạng cấu tạo láy đôi sau:

+ Từ láy bộ phận: Từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu.

* Giống nhau ở phụ âm đầu gọi là từ láy âm => thí dụ: sạch sẽ, dễ dàng, dễ dãi, đông đúc,...).

* Giống nhau ở phần vần gọi là từ láy vần => thí dụ: chói lọi, khéo léo, co ro, lanh chanh, ...)

+ Từ láy hoàn toàn: Ngoại trừ những từ láy bộ phận, còn lại là các từ láy hoàn toàn. Cụ thể gồm các dạng sau:

* Giống cả phần vần, phụ âm đầu và thanh điệu.

Thí dụ: đùng đùng, lù lù, vàng vàng,...

* Giống phần vần, phụ âm đầu, khác nhau thanh điệu.

Thí dụ: đu đủ, cỏn con, đo đỏ, tím tím,...

* Giống nhau phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và phụ âm cuối do sự chi phối của quy luật dị hóa.

Thí dụ: đèm đẹp, bàng bạc,sành sạch, tôn tốt,...

Dạng biến đổi này xảy ra trong các trường hợp các tiếng gốc có phụ âm cuối là -p, -t, -k ( thể hiện trên chữ viết là c và ch ). Trong trường hợp này, thanh điệu cũng biến đổi theo quy luật vừa nói trên. Còn phụ âm cuối biến đổi theo quy luật là tiếng gốc tận cùng bằng các phụ âm tắc-vô thanh sẽ được chuyển thành các phụ âm mũi-hữu thanh ở tiếng láy. Cụ thể:

Tiếng gốc Tiếng láy

( Âm tắc, vô thanh) ( Âm mũi - hữu thanh)

ăm ấp - p - m

phơn phớt - t - n

bàng bạc, sành sạch - k - ng ( thể hiện trên chữ ng và nh)

- Từ láy ba và láy tư:

Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hoàn toàn.

Thí dụ: nhũn => nhũn nhùn nhùn, dưng => dửng dừng dưng,

khỏe => khỏe khoè khoe, con => cỏn còn con.

xốp => xốp xồm xộp, sát => sát sàn sạt,

khít => khít khìn khịt, Sạch => sạch sành sanh

Từ láy ba có kiểu phối thanh thường gặp là:

-Tiếng thứ hai mang thanh bằng (thường xuất hiện thanh huyền hơn thanh ngang).

-Tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba đối lập nhau về bằng / trắc hoặc về âm vực cao / thấp.

Ví dụ cho trường hợp thứ nhất: dửng dừng dưng, cỏn còn con, sạch sành sanh, khỏe khòe khoe,...

Ví dụ cho trường hợp thứ hai: khít khìn khịt, sát sàn sạt, xốp xồm xộp,...

Từ láy ba dạng láy bộ phận chiếm số lượng rất ít. Ví dụ: tơ lơ mơ, tù lù mù,...

Từ láy tư: Phần lớn từ láy dựa trên cơ sở từ láy đôi, một số ít có phần gốc là từ ghép.

So với từ láy ba, từ láy tư khá đa dạng về kiểu cấu tạo. Sau đây là một số kiểu thường gặp:

+ Láy bộ phận kết hợp với đổi vần -a, -à hay -ơ.

Ví dụ: ấm ớ --- ấm a ấm ớ

hì hục --- hì hà hì hục

sớn sát --- sớn sơ sớn sát

+ Láy toàn bộ kết hợp với biến thanh.

Ví dụ: bồi hồi --- bổi hổi bồi hồi

lảm nhảm --- lảm nhảm làm nhàm

+ Láy bộ phận kết hợp với tách, xen .

Ví dụ: thơ thẩn --- lơ thơ lẩn thẩn

nhồm nhoàm --- lồm nhồm loàm nhoàm

+ Láy toàn bộ kết hợp với tách, xen

Ví dụ: hăm hở --- hăm hăm hở hở

vội vàng --- vội vội vàng vàng

3 3. ý nghĩa của từ láy.

ở đây, ta chủ yếu bàn về từ láy đôi.

Xét tác dụng của các tiếng tham gia cấu tạo nghĩa của từ láy, có thể chia từ láy nói chung thành 3 nhóm :

a. Từ láy phỏng thanh: là từ láy trong đó không xác định được tiếng gốc, các tiếng được hình thành và được ghép lại dựa vào sự mô phỏng âm thanh của các sự sật, hiện tượng trong thực tế. Cụ thể, đấy có thể là sự nhại lại âm thanh của đối tượng. Ví dụ: oa oa, gâu gâu, đùng đùng,...; hay dựa vào mô phỏng âm thanh để định danh cho đối tượng. Thí dụ: con bìm bịp, xe cút kít, chim tu hú,...

b. Từ láy sắc thái hóa: là những từ mà trong đó có một yếu tố gốc và một hoặc hơn một yếu tố láy . Yếu tố gốc chi phối nghĩa của toàn bộ từ láy, yếu tố còn lại có tác dụng bổ sung một sắc thái nghĩa nào đó khiến cho từ láy khác với phần gốc khi nó đứng một mình và khác với từ láy khác có cùng yếu tố gốc. Ví dụ, so sánh bối rối với rối rắc rối, rối ren, rối rít; dễ dãi với dễ, dễ dàng; xanh xanh với xanh và xanh xao,...Xét về mặt phạm vi biểu vật của từ láy so với tiếng gốc, cần phân biệt hai trường hợp: thứ nhất là từ láy phi cá thể hóa - những từ mà ý nghĩa biểu thị phạm vi sự vật rộng hơn so với tiếng gốc; thứ hai là từ láy cụ thể hóa những từ mà ý nghĩa biểu thị phạm vi sự vật hẹp hơn so với tiếng gốc. Ví dụ cho trường hợp thứ nhất như: chim chóc, mùa màng, hội hè,...Ví dụ cho trường hợp thứ hai như: dễ dàng, dễ dãi, bối rối, rắc rối, rối rít, xanh xanh, xanh xao,...

Có thể nêu ra một số mô hình ngữ nghĩa tương đối thuần nhất của một số kiểu láy như sau:

- Kiểu từ láy toàn bộ:

+ Tiếng gốc gốc tính từ, kiểu L( láy).G( gốc).

* L. có thanh bằng: thường diễn đạt tính chất hoặc đặc điểm mang ý nghĩa giảm nhẹ. Ví dụ: kha khá, đo đỏ, tôn tốt,...

* L. có thanh trắc: thường diễn đạt tính chất hoặc đặc điểm có cường độ gia tăng. Ví dụ: cỏn con, tẻo teo,...

+ Tiếng gốc gốc động từ: thường diễn đạt các hành động lặp đi lặp lại một cách đều đặn và kèm với quá trình lặp lại đó, cường độ của hành động mang tính chất giảm nhẹ. Ví dụ: gật gật, lắc lắc, rung rung,...

+ Tiếng gốc gốc danh từ: thường diễn tả sự lặp đi lặp lại của các sự kiện, hiện tượng. Ví dụ: ngày ngày, người người, nhà nhà,...

- Kiểu láy âm:

* Kiểu G. L( -ăn): thường diễn tả tính chất hoặc đặc điểm đạt chuẩn mực. Ví dụ: đầy đặn, vuông vắn, ngay ngắn, thẳng thắn,...

* Kiểu L (-âp). G ( gốc động từ) : thường diễn tả hành động không ổn định tại chỗ hoặc diễn ra theo tình thế hiện ra biến mất. Ví dụ: lấp ló, thập thò, nhấp nháy,...

c. Từ láy âm cách điệu: là từ láy không chứa bộ phận còn đủ rõ nghĩa từ vựng, hoặc vẫn có thể chứng minh nghĩa của một bộ phận nào đó nhưng nó không còn tác dụng làm cơ sở nghĩa của toàn từ nữa. Ví dụ: bâng khuâng, linh tinh, thình lình,...Lọai này hiện chiếm một số lượng khá lớn trong tiếng Việt. Theo Diệp Quang Ban, đây là kiểu láy thuần khiết nhất, tiêu biểu cho toàn bộ từ láy - một kiểu cấu tạo từ lấy sự hòa phối ngữ âm tạo ý nghĩa biểu trưng làm cơ sở. Về mô hình ngữ nghĩa của kiểu từ láy này vẫn là một vấn đề còn đang để ngỏ. Phi Tuyết Hinh trong bài Từ láy không rõ thành tố gốc và vấn đề biểu trưng ngữ âm trong từ biểu tượng tiếng Việt đã cố gắng mô hình hóa nghĩa của kiểu từ này dựa vào các đặc điểm cấu âm - âm học của chúng.

4.Từ ngẫu hợp : Ngoại trừ các trường hợp trên, còn lại là các từ ngẫu hợp. Ðấy là trừơng hợp mà giữa các tiếng không có quan hệ ngữ âm hay ngữ nghĩa. Thí dụ: cà phê, a xít, a pa tít,...cổ hũ, mènheo, ba láp, ba hoa, bồ hóng,...

Chú ý:

1. Hiện tượng chuyển di kiểu cẩu tạo từ trong tiếng Việt:

Không kể từ đơn và từ ngẫu hợp, tiếng Việt có 3 kiểu cấu tạo từ cơ bản cùng với các kiểu nhỏ là:

- Từ ghép đẳng lập: gộp nghĩa, hợp nghĩa, đơn nghĩa.

- Từ ghép chính phụ: dị biệt, sắc thái hoá.

- Từ láy: phỏng thanh, sắc thái hóa, cách điệu.

Xét các đơn vị trên trục đồng đại hay lịch đại, ở bình diện ngôn ngữ hay lời nói, việc nhận thức về kiểu cấu tạo lớn nhỏ của chúng có thể di chuyển khá phức tạp, làm cho con đường phân giới giữa chúng có thể bị nhòe đi. Trong những trường hợp đó, nếu thiên về mặt này thì từ đang xét được xếp vào kiểu cấu tạo này, nhưng nếu thiên về mặt khác thì nó thuộc kiểu cấu tạo khác.

Chẳng hạn từ chùa chiền, đất đai, hỏi han, xét về mặt lịch sử chúng là từ ghép đẳng lập, tuy nhiên do sự tác động của phương thức cấu tạo từ và mô hình ngữ nghĩa ( nghĩa khái quát của A+B = A hoặc B) đã làm cho nghĩa của một trong hai yếu tố bị mờ nghĩa. Ngoài ra do sự trùng hợp ngẫu nghiên về mặt ngữ âm đã làm cho người bản ngữ hiện đại nhận diện chúng như là những từ láy. Xuất phát từ đặc điểm vừa nêu, trong tiếng Việt ngày nay tồn tại nhiều từ có thể có hai hướng nhìn nhận như học hành, hình hài, nhăn nheo, chăm chú, đền đài,...Như vậy, để biện luận kiểu cấu tạo của một từ, cần dựa vào một tiêu chí rõ ràng, dứt khoát. Trong khi chờ đợi những phát hiện mới mẻ hơn nữa của ngôn ngữ học lịch sử, ta có thể dựa vào tiêu chí đồng đại để xác định kiểu cấu tạo của từ.

Việc nhận thức các tiểu loại trong từ ghép đẳng lập cũng không nhất thành bất biến nếu xét từ ở bình diện ngôn ngữ hay lời nói. Trong sử dụng có thể xảy ra hiện tượng chuyển di từ tiểu loại này sang tiểu loại khác đối với những từ cụ thể. Ví dụ:

- Cửa hàng ăn uống ( gộp nghĩa); ở đây ăn uống khá thật ( rất có thể là đơn nghĩa, chỉ nói về ăn đối với các nhà ăn tập thể).

- Cơm nước đã sẵn sàng ( gộp nghĩa); cơm nước chán quá ( rất có thể đơn nghĩa).

- Ăn ở dơ dáy ( gộp nghĩa); ăn ở với nhau được hai mụn con ( chỉ sự chung sống với nhau ), ăn ở chí tình sự ( chỉ sự cư xử với nhau trong xã hội). Hai trường hợp sau này chúng được chuyển nghĩa trên cơ sở nghĩa thứ nhất. Do đó muốn xác định được kiểu cấu tạo của chúng ta phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể và biện luận rõ ràng.

2. Các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ trong tiếng Việt.

Như ta đã biết, vốn từ tiếng Việt vô cùng phong phú, mỗi từ đều được cấu tạo theo một phương thức nhất định và mang một ý nghĩa nhất định. Các kiểu cấu tạo từ giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên nội dung ý nghĩa của từ. Chính vì vậy, trong chương trình Tiếng Việt ở bậc phổ thông cơ sở và trung học, nội dung xác định các kiểu cấu tạo từ rất được những nhà giáo dục quan tâm. Tuy nhiên ở các cấp học này vấn đề tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ không phải đã sáng rõ, đặc biệt là ranh giới giữa từ láy và từ ghép. Ðể có thể xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt một cách nhất quán, cần dựa trên những tiêu chí rõ ràng. Dựa vào những vấn đề có tính chất lí thuyết về các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt đã nêu, ta có thể nêu lên và áp dụng một cách tuần tự các tiêu chí xác định các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt sau dây:

- Về góc nhìn, trong khi chờ đợi những cứ liệu lịch sử đủ rõ, ta có thể xét từ tiếng Việt dựa trên quan điểm đồng đại, tức dựa vào sự nhận thức chung của người bản ngữ đương đại về nghĩa của các yếu tố cấu tạo từ.

- Dựa vào số lượng tiếng trong từ. Nếu từ có một tiếng ( dĩ nhiên là tiếng độc lập) thì đó là từ đơn. Nếu từ có hơn một tiếng thì đó là từ phức.

- ở những từ phức, để xác định cụ thể các kiểu cấu tạo từ, ta lại tiếp tục dựa vào quan hệ giữa các thành tố.

+ Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, đồng thời trong đó có yếu tố không độc lập và không mang nghĩa thực thì đó là từ láy ( Ví dụ: vắng vẻ, dễ dàng, sạch sẽ,...). Tiêu chí này sẽ loại trừ các trường hợp các từ ghép có quan hệ ngẫu nhiên về mặt ngữ âm ( như hầm hố, máu mủ, tốt tươi,...). ở những từ láy ta lại tiếp tục dựa vào số lượng tiếng, dựa vào các bộ phận giống nhau trong từ để xác định các từ láy đôi, láy ba, các từ láy bộ phận hay hoàn toàn, láy âm hay láy vần.

+ Nếu giữa các thành tố trong từ phức có quan hệ với nhau về mật ngữ nghĩa thì đó là từ ghép. ở từ ghép, ta lại tiếp tục dựa vào các mô hình ngữ nghĩa cụ thể của từng từ để xác định các kiểu cấu tạo cụ thể. Nếu một tổ hợp tiếng gợi lên các sự vật mang ý nghĩa khái quát, tổng loại thì đó là từ ghép đẳng lập. Còn nếu một tổ hợp nêu lên một phạm vi sự vật mang ý nghĩa cụ thể thì đó là từ ghép chính- phụ.

+ Nếu giữa các thành tố không có quan hệ ngữ âm hoặc ngữ nghĩa thì đó là từ ngẫu hợp.

Câu trả lời:

Mỗi người đều dành một ngày của mình cho các hoạt động khác nhau, người thì học tập, người làm việc…Và dưới đây là một ngày hoạt động của em.

Đó là hoạt động của ngày hôm qua, ngày thứ Hai đầu tuần sau hai ngày nghỉ là thứ Bảy và Chủ nhật để bước vào một tuần học tập mới. Em học buổi sáng và buổi học bắt đầu từ lúc bảy giờ vì vậy đồng hồ báo thức của em luôn được đặt lúc sáu giờ sáng. Đúng giờ, đồng hồ báo thức reo vang, em thức dậy và vươn vai tập bài thể dục buổi sáng quen thuộc chỉ trong năm phút. Sau đó em đi đánh răng, rửa mặt sạch sẽ và ăn sáng. Tô mì nấu với trứng đã được mẹ chuẩn bị sẵn đặt ngay ngắn trên bàn đang đợi em.

Sau khi bữa sáng đã xong, em liền thay quần áo em chọn cho mình chiếc áo trắng và quần sẫm mầu vì hôm nay là thứ hai đầu tuần có buổi chào cờ, khăn quàng đỏ, mũ ca nô và sách vở đã được em chuẩn bị từ tối hôm trước. Em chải tóc gọn gàng và đạp xe đến trường. Hôm nay có năm tiết, một tiết chào cờ và bốn tiết học trên lớp. Những tiết học cứ thế trôi qua cho đến tiết cuối cùng, rồi tiếng trống trường đã điểm báo hiệu kết thúc buổi học. Hôm nào cũng vậy cứ đến trưa là cái bụng lại đói meo, nhưng vẫn phải cố gắng đạp xe về nhà. Vì năm tiết nên chúng em về đến nhà cũng khá muộn, về nhà bố mẹ em đã ăn cơm rồi để riêng hai phần ra phần em và chị gái em cũng học cấp ba nên về muộn hơn em. Mẹ giục em đi ăn cơm kẻo đói, em vội vã đi thay quần áo, rửa mặt và ăn cơm trưa.

Sau khi đã ăn no em lên giường đi ngủ khoảng một tiếng và thức dậy tiếp tục ngày hoạt động của mình. Em thức dậy lúc hai giờ chiều, vì chiều nay được nghỉ nên em sẽ ở nhà học bài và giúp mẹ một số công việc nhà. Trời khá là nắng nên tranh thủ khi trời chưa mát, em ngồi vào bàn học xem qua một số bài tập thầy cô giao để giảm bớt gánh nặng bài tập vào buổi tối. Mày mò với đống bài tập nhưng mãi không ra em liền gọi Hương – đứa bạn học cùng lớp ở ngay cạnh nhà em sang và hai đứa cùng giải bài tập. Khi số bài tập đã được giải quyết gần hết, Hương về nhà còn em đi nhổ cỏ vườn rau và tưới rau giúp mẹ.

Thấy trời cũng bắt đầu tối, em quét sân quét nhà sạch sẽ và lấy rau chuẩn bị bữa tối. Chị gái em chuẩn bị ôn thi đại học nên khá bận với việc học tập nên không có nhiều thời gian giúp đỡ bố mẹ. Còn em, chương trình học cũng không phải quá vất vả nên có nhiều thời gian rảnh hơn chị. Bữa tối đã được chuẩn bị xong, em đợi bố mẹ đi làm và chị gái đi học về ăn cơm. Tranh thủ lúc đợi em đi tắm và thu quần áo, gấp xếp gọn gàng vào tủ. Khi mọi người đã về đầy đủ, cả nhà ăn cơm rất vui vẻ, mẹ khen em nhỏ mà đã giúp đỡ được mẹ rất nhiều việc. Chị em thấy vậy tỏ vẻ ganh tỵ với em và bảo: “chẳng qua chị bận học thôi nhé!”, em mỉm cười sung sướng, ăn cơm xong chị gái em nhận việc rửa bát, còn em thì ngồi vào bàn học giải quyết số bài tập còn lại và chuẩn bị sách vở cho ngày mai.

Xong xuôi, em xem ti vi với bố mẹ một lúc rồi đi ngủ sớm để ngày mai thức dậy cho đúng giờ. Đi ngủ em nghĩ về một ngày hoạt động của mình với nhiều việc thật ý nghĩa.

Một ngày hoạt động trôi qua với nhiều việc làm, tuy mệt mỏi nhưng em cảm thấy rất vui vì đã học tập thật hiệu quả và giúp đỡ bố mẹ một số công việc dù rất nhỏ