Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 23
Số lượng câu trả lời 7
Điểm GP 3
Điểm SP 10

Người theo dõi (1)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đề tài mà Xuân Diệu hướng đến không có gì là xa lạ mới mẻ, ông cảm nhận thiên nhiên trước một nỗi niềm xôn xao bắt nguồn từ cái buồn cô đơn, từ sự khát khao giao cảm với đời chỉ thực sự xuất hiện trong ý thức cá nhân sâu sắc của các nhà thơ mới. Tác phẩm Đây mùa thu tới là một tác phẩm như vậy.

Tác giả đã vẻ lên hình tượng mùa thu với dáng vẻ của một thục nữ mỹ miều tha thướt và u buồn, đẹp một vẻ dẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu.

Tác giả đã cảm nhận không khí của mùa thu qua dáng vẻ của rặng liễu bên hồ:

                               Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

                               Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Liễu đã xuất hiện nhiều trong thơ ca với những hình ảnh đẹp, thướt tha, trong Truyện Kiều: “Dưới cầu nước chảy trong veo - Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”. Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: “chịu tang” - một cảm nhận bất ngờ, đẫm màu tang tóc. Song bất ngờ mà vẫn đúng. Lá liễu được so sánh thật tầng lớp, biến hóa: vừa đổ xuống song song như sóng tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra một loạt từ láy ầm: “đìu hiu”, “buồn buông”, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương, chua xót.

Một lần nữa, tác giả đã khẳng định, rặng liễu đã báo hiệu mùa thu tới

                                      Đây mùa thu tới, mùa thu tới

                                      Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Câu thơ vừa như một tiếng reo vui mừng, vừa như một tiếng thở dài, trong tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn  “Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu bỗng trở nên đẹp lộng lẫy, sang trọng, nhưng nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của Thơ mới. (Lưu Trọng Lư từng viết: “Em không nghe mùa thu - Lá thu kêu xào xạc - Con nai vàng ngơ ngác - Đạp trên lá vàng khô”. Đẹp quá, mà sao câu thơ như muốn khóc).

Tác giả đã bắt đầu chú ý hơn đến những gì gần gũi xung quanh mình, và điểm bắt đầu là vườn thu.

                                           Hơn một loài hoa đã rụng cành

                                           Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh

                                           Những luồng run rẩy rung rinh lá

                                           Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Mùa thu xuất hiện trọn vẹn trong khu vườn mà tác giả đang là trung tâm. Tác giả đã nhận ra một mùa thu buốt lạnh đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức là của tạo hóa. Ở câu 2 có một từ đắt: “rủa”, đồng nghĩa với “lấn” (Lá đỏ lấn lá xanh), nhưng, đổi sang “lấn” thì hiệu quả khác hẳn. “Lấn” gợi một hiện tượng thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế. “Rủa” thiên về biểu hiện nội tâm, nên mạnh hơn, nhói buốt hơn, tạo một cảm nhận bỏng rát, đau đớn trước sự tàn phá nghiệt ngã của thiên nhiên. Nguyễn Gia Thiều cũng tùng có một câu thơ dữ dội như thế: “Sương như búa bổ mòn gốc liễu” (Cung oán ngâm khúc).

Trong sự trầm tư suy nghĩa về mùa thu, nhà thơ nhận thấy gió cũng như là vật hữu hình. Ngọn gió thổi ra từ cổ thi từng rất buồn: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh - Nguyễn Khuyến), nhưng là cái buồn trong tiếng thở dài yếu ớt. Gió Xuân Diệu run lên bần bật bởi 4 phụ âm “r” (run rẩy, rung rinh) làm câu thơ buốt đến tái tê. Vũ Quần Phương quả là tinh tế khi cho răng hiệu quả câu thơ không chỉ tả gió mà còn gọi rét. Hình ảnh cành cây trong ca dao cũng rất đắm say: “Gió đưa cành trúc la đà”.  Nguyễn Khuyến đã ghê, gọt nhỏ cái “cành” trong ca dao thành cái “cần” trong Thu vịnh (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Xuân Diệu lại đẩy tiếp “cần” của Nguyễn Khuyến thành “nhánh” và “xương” đầy chất tạo hình, gây ấn tượng thị giác rất mạnh: chạm khắc vào trời thu hình ảnh cây cối quắt queo như dẻ xương gầy. Mùa thu héo quắt thêm trong hồn thơ Xuân Diệu.

Càng ngắm khung cảnh trời thu, tác giả lại càng có trạng thái u uất hơn, trùm lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kề đất và trời thành những cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối.

 Bầu trời hiện lên trước mắt nhà thơ thật đẹp có trăng, mây và chấp chới cánh chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: “Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ”. Câu chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào. Sao lại “thỉnh thoảng”? Sao lại “tự ngẩn ngơ”? Hoài Thanh bắt rất tinh đặc điểm này của Xuân Diệu: “Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học nói hay người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người”. Đúng thế. Đọc kĩ, mới thấy câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột “bắt quả tang” một trạng thái mơ màng, ngơ ngẩn của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên nhiên hay chính cõi lòng mình? Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa đất trời: “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ “hận” như tiếng nấc trước một vũ trụ dường như trống rỗng.

Khung cảnh mùa thu đã làm cho con người và vạn vật đều buồn, bầu trời và mặt đất đều có chung tâm trạng buồn:

                                            Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Tác giả đã dùng từ “luồn” thật tinh diệu, gợi cho người đọc có cảm giác nhìn thấy được cái rét mướt đang hiện hữu hình. Đúng là cái rét đang tàng hình trong tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ - vốn là nhà bác học của các giác quan mới phát hiện được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:

                                             Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

                                            Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?

Nàng thu hiện lên trong bóng dáng của một nàng thiếu nữ đẹp. Tất cả cảm giác thu quy tụ vào đây. Thơ Xuân Diệu dẫu có nói trời mây non nước gì cuối cùng cũng kết lại nơi con người, nơi tuổi trẻ, nơi những thiếu nữ vừa chạm bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, vừa ngơ ngác vừa khao khát - khao khát yêu đương, khao khát giao cảm với cuộc đời rộng lớn. Hai câu thơ man mác trong trạng thái mơ hồ không xác định, rất hợp với tâm hồn bâng khuâng của lứa tuổi này; con số không xác định (ít nhiều), nỗi buồn thầm lặng không duyên cớ (buồn không nói).

Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế (thị giác, xúc giác), tạo những rung động thâm mĩ. Đó là một cống hiến quý báu của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca. Linh hồn bức tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu. Thu không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội. Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khao khát nhập vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang “thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau” (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ là ở nỗi buồn trong sáng ấy.

Đây mùa thu tới gợi cho người đọc cảm nhận được mùa thu đẹp mà buồn. Bài thơ thể hiện sự mới mẻ cả nghệ thuật và nội dung, thể hiện sự cô đơn, niềm khát khao giao cảm với đời của nhà thơ.

 

Câu trả lời:

Giếng Loa Thành sâu hun hút, nhìn mãi không thấy đáy. Phải một lúc lâu kểtừkhi lao xuống giếng, đầu Trọng Thủy mới đập vào đáy giếng, chảy nhiều máu. Hắn cứngỡmình sẽđau lắm. Nhưng không. Sau cú va chạm mạnh ởđầu, Trọng Thủy đứng dậy, thấy mình khoẻ khoắn lạ thường. Dòng nước trong mát dưới giếng đẩy linh hồn của hắn đi đến một nơi rất xa. Nơi ấy có tiếng sóng vỗ ầm ì, có tôm,  cua, trai, ốc. “Đây là thủy cung chăng?” -Hắn nghĩ thầm.

 

Xứ sở hắn đang đến thật đẹp đẽ và lộng lẫy. Hắn lướt trên mặt nước, xung quanh hắn là hàng ngàn rong biển đang trôi dạt đầy kiêu sa. Xa xa, lấp ló ánh hào quang màu ngọc bích. Trọng Thủy tiến dần về phía ánh sáng đó. Trước mặt hắn  hiện lên một tòa cung điện nguy nga, lát toàn ngọc quý. Một con sóng lớn ập vào. Tóc Trọng Thủy dựng đứng cả lên, thành những hình thù nhòn nhọn như đinh sắt. Hắn cảm thấy lạnh gai người, toàn thân run lên bần bật.

 

- Hẳn có chuyện chẳng lành. Ta cần phải cẩn thận. -Hắn lẩm nhẩm.

 

Ồ! Những đám rong biển kia giờ không còn trôi dạt nữa. Chúng tụtập lại, tạo thành hai hàng dọc màu xanh dương. Tiếp đó, một chiếc kiệu màu trắng toát xuất hiện. Mấy chú cá kình biển Đông khiêng kiệu, dõng dạc nói:

 

- Băng Thạch MịChâu công chúa giá lâm!

 

“Là Mị Châu ư?” -Trọng Thủy mừng rỡ

 

“Thì ra nàng vẫn còn sống. Ta nhớ nàng khốn khổ xiết bao.” Trọng Thủy bồi hồi nhớ lại ngày nàng mới cưới hắn, vẻ trong trắng, thơ ngây của nàng, cả khúc nhạc trong trẻo nàng thường gảy cho hắn nghe.

 

Nhưng bước xuống lại là một người phụ nữ có gương mặt trắng xanh, đứng  bất động như đá. Mỗi cử động của nàng đều vô cùng khó khăn. Phía sau nàng là một người àn ông mặt mày dữ tợn, cắm hai chiếc sừng trâu trên đầu. Người ấy  ôn tồn bảo Mị Châu:

 

- Trước, vì chuyện tình duyên với Trọng Thủy làm con đau khổ, hóa đá, để đến nỗi linh hồn cũng bị băng lại thành ngọc thạch. Muốn giải được điều này, con phải đích thân trừng trị Trọng Thủy.

 

Mị Châu khiêm nhường, cúi mặt xuống, đáp:

 

-Đa tạ Diêm Vương đã cho con cơ hội để trả mối nhục thù.

 

Mị Châu dứt lời, Diêm Vương đã biến mất trong những làn sóng biển rì rào.

Trọng Thủy chạy lại, nắm chặt tay Mị Châu. Tim nàng thổn thức. Những kỉ niệm đẹp nhất của cuộc sống vợ chồng ùa về trong trái tim nàng. Đứng trước mặt con người ấy, Mị Châu rất muốn dùng đôi tay mềm mại của mình ôm lấy Trọng Thủy. Thế nhưng, nàng rất nhẹ nhàng, bình thản bỏ tay Trọng Thủy ra.

 

- Mị Châu đã hóa đá. Trái tim này cũng biến thành băng rồi. -Mị Châu lạnh lùng nói.

 

Nhìn người đẹp khuôn mặt lạnh tanh, vô cảm, ánh mắt nhìn vào cõi miên man, thân người nàng đông cứng như một tảng băng ngàn năm, Trọng Thủy đau đớn vô cùng. Hắn rút từ trong tà áo một con dao găm, đưa cho Mị Châu:

 

- Hãy giết ta đi! Trái tim nàng sẽ ấm nóng trở lại.

 

Mị Châu cầm con dao trên tay, nhìn trân trân Trọng Thủy. Ánh mắt ấy  vừa chan chứa tình yêu, nỗi nhớ, vừa đầy sự than trách.

 

- Chàng yêu thiếp vậy, sao còn hãm hại cha thiếp, đất nước của thiếp?

 

- Vì cha ta. -Trọng Thủy nghiêm mặt nói - Cướp được Âu Lạc, nước của ta sẽ mạnh lên. Ta không hối hận đâu. - Trọng Thủy nói, nhìn thẳng vào mắt Mị Châu.

 

Giờ Mị Châu mới sực tỉnh. Từ hồi cưới nàng, Trọng Thủy chưa từng một lần nhìn vào mắt nàng. Khi nói chuyện, mắt hắn thường nhìn xuống đất.

 

- Chàng nói lại đi! Chàng có hối hận không? - Không -Trọng Thủy kiên quyết nói.

 

Năm xưa, để mở rộng quốc thổ, cha nàng chẳng đã từng xâm chiếm Văn Lang đó sao? Chiến tranh giữa các nước, mạnh được yếu thua là chuyện muôn thuở mà.

 

-Vậy sao chàng còn tự tử? Sao không về với cha chàng rồi cưới một người vợ quý tộc khác? Lúc ấy, thiếp sẽ là ma hiện về ám ảnh chàng.

 

- Ta có hối hận chứ. Nhưng ta chỉ hận mình khi đã gợi ý cho nàng về chiếc áo lông ngỗng, để cha nàng phát hiện và đã giết nàng. Ta hận đã đến quá muộn để chỉ còn ôm được xác nàng. Mị Châu,ta thực lòng mong được sống với nàng suốt đời suốt kiếp.

- Nhưng thiếp không muốn. Thiếp không muốn sống với một người đã giày xéo đất nước thiếp.

 

Mị Châu quay mặt đi. Những giọt nước mắt lăn dài trên má nàng. Lòng nàng như đang bị muôn ngàn mũi tên xuyên thủng. Nỗi đau này còn lớn hơn cả nhát kiếm mà phụ vương đã đâm nàng. Tình yêu và thù hận, bên nào nặng, bên nào nhẹ? Mặt Trời đã qua mấy lần đội biển. Mị Châu và Trọng Thủy vẫn chưa nói thêm với nhau câu gì.

 

- Trọng Thủy, sao chàng lại muốn chết? - Mị Châu thầm thì hỏi

 

-Vì ta muốn trả nợ cho nàng. Chết rồi, ta sẽ hết đau đớn, dằn vặt.

 

-Vậy thì thiếp không để cho chàng chết đâu. Nợ của chàng sao có thể trả dễ như thế được? Thiếp muốn chàng phải đau khổ, cắn dứt lương tâm đời đời kiếp kiếp. Một ánh nến tắt màu đen tuyền chuyển động nhịp nhàng trên mặt nước. Đến gần Mị Châu, ánh nến tắt dừng lại và hiện thành Diêm Vương.

 

- Mị Châu, đã hết thời gian rồi. Ta không thể ở lại thủy cung quá lâu. Con đã trả thù chưa? –Ngài nói

 

- Diêm Vương, con cầu xin ngài cho Trọng Thủy bất tử, còn con sẽ là một linh hồn bình thường của dòng luân hồi. Ở bất cứ kiếp nào, Trọng Thủy cũng nhận ra con, tìm đến với con. Nhưng con thì chẳng nhớ hắn là ai, cưới chồng, sinh con với người khác. Con muốn hắn phải đau khổ, phải yêu con cả ngàn năm, cả vạn năm. - Mị Châu nói, đôi mắt nàng vẫn không rời khỏi Trọng Thủy

 

-Vậy con có muốn Trọng Thủy cả ngàn vạn năm ấy phải sống ở Âu Lạc không? Hắn ta còn phải trả nợ với đất nước của con nữa –Diêm Vương nói.

- Xin theo ý ngài - Mị Châu đáp

 

- Địa Tạng Tứ Quỷ, hãy hộ tống Trọng Thủy về Âu Lạc. Bi Cầm Linh Anh, mỗi lần Trọng Thủy gặp Mị Châu, ngươi hãy gảy khúc đàn của nước Nam Việt. Nỗi nhớ quê hương hoà quyện trong sầu thương của tình yêu vô vọng, ta muốn trái tim Trọng Thủy tan ra thành nước.

 

Địa Tạng Tứ Quỷ vâng lời đưa Trọng Thủy đi. Bóng hắn khuất dần sau những gợn sóng nhấp nhô. Mị Châu cảm thấy thoải mái trong người. Nàng đã không còn là một tảng băng. Cử động của nàng đã uyển chuyển như ngày nào. Nhưng có ai ngờ đâu, trái tim nàng đang rỉ máu. "Trọng Thủy, thiếp ao ước biết bao đến một lúc nào đó, chàng và thiếp sẽ gặp lại nhau ởmột nơi rất xa, rất xa. Khi ấy, không còn những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc. Chàng và thiếp sẽ không còn  kẻ Nam người Bắc và rồi tình yêu sẽ trở lại giữa hai ta” ...

 

Câu trả lời:

           Đi suốt cuộc đời học sinh mỗi chúng ta là hình ảnh của các thầy cô giáo. Mỗi người người một vẻ, một cách khác nhau và cũng vì thế các thầy cô lại để lại ấn tượng sâu đậm hay mờ nhạt khác nhau trong lòng mỗi cậu học trò. Nhưng tất cả các thầy cô đều có một khát vọng giống nhau: truyền cho ta tri thức. Và vì thế hình ảnh các thầy cô đều đẹp, đẹp nhất và gần gũi nhất chính là lúc các thầy cô đứng trên bục giảng.

          Giấu đi những kỷ niệm mãi mãi không quên ở thời tiểu học, chúng tôi bước vào lớp sáu. Tôi bước vào tuần học đầu tiên bằng một tâm trạng hồi hộp xen lẫn có một cái gì đó đầy xa lạ. Nhưng không ngờ tất cả những gì đã đến đều đẹp hơn những tưởng tượng của tôi. Ấn tượng ấy đến từ tiết học đầu tiên.
Hôm ấy là thứ hai, cả lớp tôi đón tiết Ngữ văn, tiết học đầu tiên của năm lớp sáu. Cô giáo bước vào lớp với nụ cười hiền dịu vô cùng. Cô mặc một bộ quần áo giản dị nhưng vẫn đẹp, rất hợp với dáng người thon thả của cô. Đôi mắt đen láy dịu hiền hợp với khuôn mặt thật là phúc hậu. Cô giới thiệu cô tên là Hải Minh. Cô sẽ dạy văn lớp mình. Còn lại thời gian sẽ giúp cô trò ta hiểu biết về nhau. Rồi cô vào bài giảng.

           Tôi ngồi gần cuối lớp chăm chú nhìn theo những ngón tay búp măng của cô đang tô đậm đầu bài. Cô vào bài giảng nhẹ nhàng hấp dẫn bằng những lời văn đầy nghệ thuật. Vừa viết, vừa giảng, cô vừa đối thoại với học trò làm cho tiết học gần gũi vô cùng. Tôi nhìn cô! Cô đang giảng say sưa quá, khiến tôi muốn giữ tất cả những lời giảng của cô.

          Tấm bảng đen bắt đầu dày phấn trắng, những nét chữ đều đặn, gọn gàng, chỗ thanh, chỗ đậm, chỗ gạch chân được trình bày đẹp và khoa học chứng tỏ người viết cực kỳ cẩn thận. Nhìn nét chữ của cô, chúng tôi thấy ngại ngùng vì tính cẩu thả của mình. Phía trên cô vẫn viết và vẫn giảng. Thỉnh thoảng cô quay sang uống một ngụm nước nhỏ hoặc gọi một bạn nào đó đứng lên trả lời câu hỏi: cô không bao giờ căn vặn. Câu hỏi bao giờ cũng gợi ý nhẹ nhàng để gỡ thế cho học trò. Cũng có lúc cô đi xuống tận chỗ bàn tôi. Cô nắn lại tay bạn nào cầm bút sai tư thế, chữa một lỗi chính tả cho bạn ngồi ngay cạnh tôi hay nhắc bạn ngồi ở dãy bên kia đừng cúi đầu thấp quá. Giờ giảng cứ thế trôi qua ngắn đến vô cùng. Vừa mới đó mà đã ra chơi. Bài giảng của cô cũng vừa hết. Cô lại mỉm cười chào cả lớp trước khi trở lại văn phòng. Cả lớp tôi nhìn nhau vỗ tay giòn giã.

          Ấn tượng của buổi học hay nói đúng hơn là ấn tượng về sự say sưa của cô giáo lúc giảng bài đọng lại trong tôi rất đẹp. Tôi mơ màng nghĩ ngợi và chờ đợi để được nghe lời giảng, được ngắm nhìn sự chăm chú say sưa với bài giảng của cô trong tiết học lần sau.

Câu trả lời:

Tôi là chú cá vàng kẻ đã giúp lão đánh cá tội nghiệp mấy lần thoát khỏi bàn tay cay nghiệt của bà vợ. Chắc các bạn muốn tôi kể cho nghe về câu chuyện đó một cách cụ thể hơn.

Chuyện là thế này, hôm đó là một ngày đẹp trời tôi tung tăng cùng các bạn bơi lội ở một vùng biển nước xanh biếc. Do mải chơi nên tôi bị lạc mất đàn, giữa lúc đó tôi chợt nhận ra mình đã bị mắc vào lưới của ngư dân. Tôi kêu gào thảm thiết vì biết rằng thế là đời tôi đã hết, từ nay tôi chẳng còn được cùng các bạn tung tăng giữa đại dương mênh mông.

Đúng lúc tuyệt vọng nhất tôi chợt nhận ra mình còn có một vài phép lạ mà có thể dùng nó để trao đổi mạng sống. Nghĩ vậy nên vừa thấy lão tôi đã van xin:

- Xin lão hãy mủi lòng mà tha cho tôi! Lão cần gì tôi sẽ cho.

 Nhưng rất may hôm đó tôi gặp được lão đánh cá tốt bụng, thấy bộ mặt thảm thương của tôi lão đã mủi lòng tha cho tôi, lão nói:

- Thôi ngươi hãy trở về ngôi nhà cùng các bạn mà tung tăng vui đùa, ta không cần bất cứ thứ gì cả.

Nói xong lão nhấc tôi ra khỏi lưới đem tôi thả xuống dòng nước xanh mát. Tôi sung sướng chào lão và bơi đi tìm các bạn. Chắc các bạn của tôi sẽ rất ngạc nhiên khi thấy tôi trở về biển xanh một cách an toàn như vậy.

Thế nhưng được một lúc, khi ta đang mải mê vui chơi cùng chúng bạn, bỗng ta nghe thấy tiếng ai như tiếng ông lão đánh cá gọi:

- Cá vàng ơi! lên giúp ta với!

Nghe tiếng ông lão gọi, ta vội vàng nổi lên mặt biển, ta thấy ông lão đã đang đợi ta, khuôn mặt đau khổ, lão nói:

- Chú hãy giúp ta với, mụ vợ ta càu nhàu mãi bên tai làm tôi không chịu được, mụ muốn tôi xin một cái máng lợn mới vì chiếc máng cũ đã bị sứt rồi.

Tôi trả lời:

- Lão đừng lo. Lão cứ về nhà đi. Tôi sẽ biếu lão một cái máng mới.

Xong việc tôi lại quay về biển khơi, trong lòng chắc mẩm lão đánh cá đã được yên vì mụ vợ đã có chiếc máng mới.

Xong cũng chỉ được vài hôm tôi lại nghe thấy tiếng lão gọi. Tôi lại bơi lên gặp lão. Vừa nhìn thấy tôi lão đã khẩn khoản:

- Cá vàng ơi giúp ta với. Mụ vợ ta lại đòi một toà nhà đẹp.

- Lão ơi tôi sẽ giúp lão, lão cứ trở về nhà đi.

Tôi cảm thấy thương lão vì lão là một người thật hiền từ mà lại có một bà vợ tham lam.

Tôi nghĩ rằng có lẽ từ bây giờ mụ vợ sẽ không còn đòi hỏi gì nữa khi đã có một toà nhà đẹp. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn lão đánh cá lại gọi tôi lên, lần này lão nói:

- Mụ vợ của ta thật tham lam nó chẳng để tôi yên. Nó muốn được làm nhất phẩm phu nhân, nó không muốn làm mụ già nông dân nữa.

Nghĩ đến công lão tha mạng và sự tốt bụng của lão tôi lại bằng lòng giúp lão. Thế nhà mụ vợ lão đã có nhà cao cửa rộng, lại còn là nhất phẩm phu nhân. Tôi yên tâm từ nay lão đánh cá sẽ được sống yên thân.

ấy vậy mà chẳng bao lâu sau, hôm đó biển sóng gầm gào, mịt mù, tôi lại nghe thấy tiếng lão gọi tha thiết:

-  Cá vàng ơi! Giúp lão với. Con mụ vợ vẫn chẳng để cho lão yên.

Tôi vội vàng trở lên chào lão.

- Ông lão ơi! Ông lão cần gì thế!

- Mụ vợ tôi lại chẳng để cho tôi được yên, mụ muốn được làm nữ hoàng.

Nhìn bộ dạng đáng thương của lão tôi lại bằng lòng giúp lão:

- Lão cứ yên tâm về đi rồi mụ vợ của lão sẽ được làm nữ hoàng.

Tôi lại yên tâm trở về biển xanh. Rồi một hôm sóng biển nổi lên mịt mù, gầm réo ầm ào. Tôi nghe thấy tiếng lão đánh cá gọi. Tôi vội trở lên gặp lão:

- Có việc gì thế lão? Lão cần gì à?

- Khổ lắm cá vàng ơi, mụ vợ của ta lại không muốn làm nữ hoàng nữa, mụ muốn được làm Long Vương ngự trên biển để cá vàng hầu hạ.

Nghe xong yêu cầu của mụ vợ tôi giật mình tức giận, mụ ta thật quá đáng, mụ muốn tôi trở thành kẻ hầu người hạ cho mụ ư? Tôi không thể đáp ứng được yêu cầu này của mụ được. Bực mình tôi lao ngay vào biển khơi không kịp cả chào lão. Tôi định bụng sẽ trừng trị cho mụ một trận nhưng nghĩ đến lão già tốt bụng, tội nghiệp, tôi lại hoá phép cho họ căn nhà và chiếc máng sứt như xưa để lão có chỗ chui ra chui vào. Đó chính là bài học đích đáng tôi muốn dành cho mụ vợ, đó là những người tham lam sẽ chẳng bao giờ có được những gì tốt đẹp.

Từ đó trở đi tôi không còn thấy lão đánh cá ra tìm nữa, có lẽ sau bài học này bà vợ sẽ trở nên hiền lành, tốt bụng hơn xưa.