Vận nước (Quốc tộ)

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Thiền sư Pháp Thuận (915 - 990) họ Đỗ.

- Không rõ tên thật và quê quán.

- Là một nhà sư thuộc thế hệ thứ mười dòng thiền Nam phương do Thiền sư người Thiên Trúc Tì-ni-đa-lưu-chi đến nước ta năm 580 lập ra.

- Ông từng giữ công việc cố vấn quan trọng dưới triều Tiền Lê.

- Tác phẩm của ông hiện còn một bài thơ trả lời Lê Đại Hành hỏi về vận nước.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Vua Lê Đại Hành muốn hỏi ông về vận nước và ông đã trả lời bằng bài thơ này.

b. Bố cục 

- Phần 1: (Hai câu thơ đầu): Bàn về vận nước.

- Phần 2: (Hai câu thơ cuối): Cách trị nước.

@1141533@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Hai câu thơ đầu

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lí thái bình

(Vận nước như dây mây leo quấn quýt,

Ở cõi trời Nam mở ra cảnh thái bình)

- Tác giả mượn hình tượng thiên nhiên để nói về vận nước. Nghệ thuật so sánh “Vận nước như dây mây leo quấn quýt” vừa nói lên sự bền chặt, vừa nói lên sự lâu dài, sự phát triển thịnh vượng.

 - Một lời tiên đoán đầy tính khích lệ về tương lai của đất nước: Triển vọng của đất nước là tốt đẹp, bền vững. Trời Nam mở ra vận hội thái bình. Hình ảnh “Nam thiên” (trời Nam) nói lên niềm tự hào kín đáo mà sâu sắc của tác giả về một đất nước độc lập so với Bắc quốc (có thể liên hệ với Đại cáo bình Ngô để thấy mạch tiếp nối của ý thức độc lập dân tộc này).

@1141596@

2. Hai câu sau

Vô vi cư điện các

   Xứ xứ tức đao binh

(Vô vi ở nơi cung điện

Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh).

- Hai câu thơ cuối nói về đường lối trị nước, tóm lược trong “vô vi”:

+ Vô vi là vô vi pháp của nhà Phật. Nghĩa là từ bi bác ái. Điện các để chỉ triều đình, chỉ nhà vua. Cả câu thơ nên hiểu muốn giữ yên vận nước và để vận nước phát triển thịnh vượng nhà vua phải vô vi, phải làm những gì thuận với tự nhiên với lòng người. Theo nghĩa nhà Phật làm cho mọi chúng sinh được yên vui, xoá bỏ mọi khổ đau của họ. Đó là tư tưởng lo cho dân.

+ Nếu làm được điều đó (Vô vi trên điện các) thì tất yếu sẽ được. “Chốn chốn dứt đao binh”: nghĩa là nơi không có cảnh chém giết nữa, không còn chiến tranh, đất nước thanh bình thì vận nước, ngôi vua mới được bền vững.

- Hai câu thơ cuối khẳng định chỉ có lấy đức trị quốc mới là kết sách lâu bền của quốc gia thịnh trị.

- Điểm then chốt của bài thơ là hai chữ “thái bình”:

+ Vận nước và đường lối trị nước đều hướng tới đất nước “thái bình".

+ Trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc, nguyện vọng của con người thời đại bất giờ muốn nền “thái bình muôn thưở".

-> Khẳng định truyền thống chuộng hòa bình của dân tộc ta.

@1141654@

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

- Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tuyệt cú Đường luật, cân đối chia làm hai vế: vế thứ nhất bàn về vận nước, vế thứ hai nói về cách trị nước.

- Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh biểu tượng.

-  Hình thức thơ giàu hình ảnh và hệ thống ngôn ngữ hàm súc.

2. Nội dung

Biểu hiện lòng yêu nước, khát vọng sống hòa bình và sự quan tâm tới vận nước của tác giả.

@1141722@

Danh sách các phiên bản khác của bài học này. Xem hướng dẫn
Trịnh Long đã đóng góp một phiên bản khác cho bài học này (19 tháng 8 2021 lúc 17:00) 1 lượt thích