Tây Tiến (Quang Dũng)

Nội dung lý thuyết

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Quang Dũng (1921-1988), tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Quê huyện Đan Phương, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội)

 - Sau Cách mạng tháng Tám ông tham gia quân đội. Từ sau 1954 là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học.

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh và soạn nhạc nhưng ông được biết đến nhiều nhất với tư cách một nhà thơ. Thơ ông hồn hậu mà tinh tế, phóng khoáng, giàu cảm hững lãng mạn. Đặc biệt ngôn ngữ thơ vừa mang màu sắc cổ điển vừa mới lạ, hiện đại lại đậm chất nhạc và chất họa...

- Các tác phẩm chính: Đường lên châu Thuận (truyện, kí 1964), Rừng về xuôi (truyện, kí 1968), Nhà đồi (truyện, kí 1970), Mây đầu ô (1986)...

- Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

2. Văn bản

- Hoàn cảnh sáng tác: 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi tác giả đã rời xa đơn vị Tây Tiến

- Xuất xứ tác phẩm: in trong tập Mây đầu ô. Tác phẩm ban đầu được Quang Dũng đặt “Nhớ Tây Tiến”. Sau này, khi in trong tập Mây đầu ô tác giả bỏ đi từ Nhớ.

- Cảm hứng chủ đạo: Tình cảm gắn bó sâu nặng với đoàn quân Tây Tiến, thiên nhiên, con người Tây Bắc và tình yêu đất nước.

- Nhan đề Tây Tiến:

- Đây là tên đơn vị quân đội: được thành lập đầu năm 1947

- Lực lượng chủ yếu là: học sinh, sinh viên trí thức Hà Nội

- Nhiệm vụ: bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh tiêu hao một phần quân đội Pháp

- Địa bàn hoạt động: khá rộng gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào)

- Điều kiện hành quân: vô cùng gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật hoành hành…

- Tinh thần đơn vị Tây Tiến: luôn lạc quan, yêu đời và vô cùng dũng cảm

- Bố cục:

- Phần 1 – 14 câu thơ đầu: “Sông Mã ... thơm nếp xôi”: Nỗi nhớ của tác giả về bức tranh thiên nhiên miền Tây và hình ảnh hành quân của người lính Tây Tiến

- Phần 2 – 8 câu tiếp: “Doanh trại ... hoa đong đưa”: Nỗi nhớ của tác giả về những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh thiên nhiên sông nước miền Tây

- Phần 3 – 8 câu tiếp “Tây Tiến đoàn ... khúc độc hành”: Nỗi nhớ của tác giả về tập thể người lính Tây Tiến

- Phần 4 – 4 câu cuối “Tây Tiến ... chẳng về xuôi”:   Lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến 

II. Khám phá văn bản

1. Đề tài và cảm hứng chủ đạo

- Bài thơ viết về đề tài chiến tranh và người lính.

- Cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến là cảm hứng lãng mạn và cảm hứng bi tráng.

2. Hình tượng nhân vật trữ tình

2.1. Nhân vật trữ tình bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ qua hai câu thơ đầu:

– Kết đọng trong nỗi nhớ: sông Mã, Tây Tiến, rừng núi, nhớ về Sông Mã là nhớ về

Tây Tiến. Đó là nơi gửi chốn về trong nỗi nhớ của người lính.

– Nỗi nhớ “chơi vơi” thể hiện độ lùi của thời gian và độ nhoè của cảm xúc, nỗi nhớ tiềm ẩn và lan toả, lúc đậm, lúc nhạt.

- Hai câu thơ đầu đã định hướng và chi phối cảm xúc cho cả bài thơ, nỗi nhớ khơi nguồn cho kí ức lần lượt hiện về.

2.2. Hình tượng nhân vật trữ tình được khắc hoạ qua nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ về thiên nhiên (rừng núi), đoàn quân (Tây Tiến), nhớ về tình quân dân, nhớ về người lính.

a. Nhớ về thiên nhiên miền Tây Bắc và những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến

- Câu 3 - 4:

   “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

+ Bút pháp tả thực: Sương mù vùng cao như che lấp, nuốt chửng đoàn quân hành quân mỏi mệt.

+ Kết hợp bút pháp lãng mạn: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, gợi không gian huyền ảo: cảnh vật về khuya phủ đầy hơi sương lạnh giá. Câu thơ với nhiều thanh bằng: Tạo cảm xúc lâng lâng trong lòng người chiến sĩ khi bắt gặp cảnh hoa nở giữa rừng

-> Mỗi mảnh đất đi qua có một dấu ấn riêng, ẩn trong đó là hình ảnh người lính hành quân vất vả, gian khổ nhưng tâm hồn yêu đời, lạc quan

- Bốn câu tiếp theo:

“ Dốc lên khúc khuỷ dốc thăm thẳm

..........

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

- Điệp từ: dốc, ngàn thước nhấn mạnh địa bàn lắm dốc, nhiều thác vô cùng nguy hiểm

- Nhiều từ láy gợi hình được sử dụng: khúc khuỷ, thăm thẳm, heo hút diễn tả địa hình hiểm trở, gập ghềnh, gấp khúc, vừa gợi độ cao, vừa gợi chiều sâu như không biết đâu là giới hạn cuối cùng.

- Nghệ thuật đối: lên cao, xuống thấp, câu thơ như có chất họa, bị bẻ làm đôi diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm, hình dung diễn tả đúng thế núi đồi, lên cao, rồi xuống thấp. Hình dung sự khó nhọc trên chặng đường hành quân leo dốc gian khổ

- Hai chữ ngửi trời :vừa đặc tả độ cao chót vót của núi (Người lính trèo lên ngọn núi cao dường như đang đi trong mây nổi thành cồn “heo hút”, mũi súng như chạm đến đỉnh trời) vừa thể hiện tính chất tinh nghịch, khí phách ngang tàng, coi thường hiểm nguy của người lính Tây Tiến.

+ Câu thơ thứ tư đối lập với ba câu trên: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, làm cho đoạn thơ có chất nhạc trong đó. Được dệt toàn thanh bằng, âm ơi kết thúc dòng thơ: câu thơ nhẹ như nhịp thở thư giãn của người lính. Nếu ba câu trên là nốt cao trong một bản nhạc thì câu thơ thứ tư chính là một nốt nhạc trầm nhẹ.

+ Người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, thấy một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

-> Thiên nhiên vô cùng hiểm trở, gập ghềnh, dốc cao, vực sâu, ẩn trong đó là hình ảnh người lính hành quân gian khổ nhưng hết sức yêu đời, tinh nghịch

- Hai câu tiếp theo:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

- Từ láy dãi dầu, diễn tả sự dãi nắng, dầm mưa, vất vả, gian khổ trên con đường hành quân của người lính.

- Nghệ thuật nói giảm nói tránh: không bước nữa, bỏ quên đời, diễn tả sự ra đi hết sức nhẹ nhàng, thanh thản nhưng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính Tây Tiến.

-> Hình ảnh người lính hành quan gian khổ, có cả sự hi sinh nhưng vẫn toát lên tư thế kiên cường, sẵn sàng chiến đấu.

- Hai câu tiếp theo:

+ Điệp từ: chiều chiều, đêm đêm nhằm nhấn mạnh không chỉ một chiều, một đêm mà nhiều chiều, nhiều đêm, không chỉ ban đêm mà thậm chí cả ban ngày

+ Cái hoang vu, hiểm trở tiếp tục được khai thác theo chiều thời gian:

+ Nhân hóa âm thanh: tiếng “thác gầm thét” trong mỗi buổi chiều, hình ảnh: “cọp trêu người” đêm đêm gợi thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn

+ Cách dùng động từ vô cùng độc đáo, đắc sắc cọp “trêu” (chứ không phải vồ người, xé xác người”, gợi sự trẻ trung, tinh nghịch của chất lính, làm giảm bớt sự khắc nghiệt của thiên nhiên.

-> Gợi không gian hoang vu, rừng thiêng nước độc, đầy bí hiểm, dữ dội

- Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

  + Cảnh tượng thật đầm ấm: Sau chặng đường hành vất vả, người lính quây quần bên nồi cơm bốc khói

  + Bát xôi nghi ngút khói và hương lúa nếp ngày mùa được trao từ tay em : làm ấm lòng người chiến sĩ, xua tan vẻ mệt mói

+ Kết hợp từ khá lạ, quan hệ từ bị lược bớt: “mùa em” à làm giọng thơ ngọt ngào, êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn tiếp theo.    

b. Nhớ về những kỉ niệm trong đêm liên hoan và thiên nhiên sông nước miền Tây trong 8 câu tiếp theo.

* Bốn câu thơ đầu- cảnh liên hoan văn nghệ

         “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

        ...Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

+ Địa điểm: diễn ra buổi liên hoan văn nghệ: ở doanh trại – nơi đóng quân của người lính.

+ Thành phần: người lính và người dân bản địa trong đó đặc biệt phải kể đến là nhân vật trung tâm, nhưng người em gái dân tộc bản địa vừa e thẹn vừa tính tứ (e ấp), vừa duyên dáng trong điệu vũ xứ lạ (man điệu)

+ Hoạt động: ca hát, nhảy múa quanh đốm lửa lớn

+ Động từ “bừng” làm không gian như sáng rực lên, lung linh, sáng cả không gian núi rừng

+ Hai chữ “kìa em”: cái nhìn vừa ngạc nhiên vừa mê say, ngây ngất của các chàng trai Tây Tiến

-> Người lính Tây Tiến nhập cuộc, hòa mình say sưa theo âm điệu dìu dặt, đưa hồn về những chân trời mới, xây hồn thơ với bao mộng ước ngọt ngào: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

*Bốn câu cuối, cảnh sông nước miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

...Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

- Không gian và thời gian: Dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương; sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử, mênh mông, nhoè mờ, ảo mông

- Con người:

   + dáng người trên độc mộc: dáng hình mềm mại, uyển chuyển  của những cô gái Thái trên những chiếc thuyền độc mộc

   + Vẻ đẹp của con người hoà hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên: những bông hoa rừng cũng “đong đưa”, làm duyên trên dòng nước lũ.

+Thiên nhiên mang vẻ mềm mại, duyên dáng khác hẳn với những nét khoẻ khoắc, gân guốc khi đặc tả cảnh dốc đèo ở khổ trên

-> Ngôn ngữ tạo hình, vài nét gợi tả chấm phá, giàu tính nhạc, chất thơ hoà quyện: thể hiện vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên và con người.

c. 8 câu tiếp, nỗi nhớ chân dung người lính Tây Tiến:

  * Hai câu đầu: Ngoại hình của người lính:

“Tây Tiến  đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

- Vừa bi: Ngoại hình khác thường do hiện thực nghiệt ngã:

  + “không mọc tóc”: người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi giáp lá cà, người thì bị sốt rét đến rụng tóc

  + “Quân xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét, bệnh tật hành hạ, trang phục xanh hay màu ngụy trang bởi lá rừng...

- Vừa hùng: không né tránh hiện thực khốc kiệt của chiến tranh nhưng qua cái nhìn lãng mạn

   + “đoàn binh không mọc tóc”: “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân”à hào hùng

   + “Quân xanh màu lá” nhưng vẫn “dữ oai hùm”, nghệ thuật tương phản đối lập giữa ngoại hình bên ngoài với sức mạnh bên trong

-> Hai câu đầu miêu tả ngoại hình bên ngoại có vẻ kì dị, ốm yếu,xanh xao nhưng lại mang phong thái oai phong, dữ tợn, uy nghi như chúa sơn lâm của binh đoàn Tây Tiến

* Hai câu tiếp: Giấc mộng lãng mạn của người lính.

“Mắt trừng gởi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

-  “Mắt trừng”: đôi mắt mở to, nhìn thẳng, như không chớp, cái nhìn nẩy lửa đối với kẻ thù

- “gửi mộng qua biên giới”: thể hiện nét oai phong, lòng quyết tâm đánh giặc đến cùng,

Mong muốn lập được chiên công nơi biên giới Việt Lào

     “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” :

- Nhớ người yêu, những cô gái Hà Thành duyên dáng, xinh đẹp

- Diễn tả đúng thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ, trở thành động lực để giúp người lính Tây Tiến vượt qua mọi khó khăn, gian khổ

-> Khắc họa vẻ đẹp của người lính trong nhiệm vụ cũng như vẻ đẹp tâm hồn của họ

* Bốn câu cuối: Cái chết bi tráng và sự bất tử:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

..............

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

- Sử dụng từ Hán Việt cổ kính: “Rải rác biên cương mồ viễn  xứ”, tạo không khí trang trọng, thiêng liêng, làm giảm nhẹ cái bi thương của hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi.

+ Phủ định từ “chẳng” (khác với không- sắc thái trung tính) và cách nói hoán dụ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, thái độ kiên quyết hi sinh vì Tổ quốc, lí tưởng quên mình thật cao đẹp làm vơi đi cái đau thương.

+ Cách nói giảm nói tránh “anh về đất”, làm vơi đi cảm giác đau thương, ẩn chứa hàm nghĩa: chết là hoá thân với đất mẹ, là hoá thân với non sông đất nước, cái chết trở thành bất tử cùng hồn thiêng sông núi.

+ Áo bào thay chiếu: sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, phải mai táng bằng chính chiếc áo các anh mặc hàng ngày. Bằng cảm hứng lãng mạn dưới góc nhìn của Quang Dũng người lính Tây Tiến không may ngã xuống như được khoác trên mình tấm “áo bào”: nghe trang trọng, thiêng liêng, thể hiện tình cảm yêu thương đồng đội.

+ Biện pháp nhân hoá + động từ “gầm”: dữ dội, hào hùng à âm thanh làm át đi cảm xúc bi thương: gợi về sự ra đi của những anh hùng nghĩa sĩ thuở xưa

-> đưa tiễn người là khúc nhạc bi tráng của núi sông à cái chết thấm đẫm tinh thần bi tráng

=> Giọng thơ trang trọng: thể hiện tình cảm tiếc thương và sự trân trọng, kính cẩn trước sự hi sinh của đồng đội. Hai cảm hứng lãng mạn và bi tráng đan cài dựng nên tượng đài bất tử trong thơ.

d. Nhớ về tinh thần người lính Tây Tiến

- Cách nói khẳng định: “Tây Tiến người đi không hẹn ước” à tô đậm cái không khí chung của một thời Tây Tiến với lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày về, một đi không trở lại (nhất khứ bất phục hoàn)

- Đường lên Tây Tiến: “thăm thẳm, chia phôi”: nỗi xót xa khi đã xa đồng đội, khi nghĩ đến đường lên Tây Tiến xa xôi, vời vợi.

- Nhà thơ khẳng định tâm hồn mình thuộc về Tây Tiến:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

+ Mùa xuân ấy: thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại à mốc thương nhớ vĩnh viễn trong trái tim những người lính Tây Tiến một thời

+ Cách nói đối lập: Sầm Nứa >< về xuôi

                                (tâm hồn)   (thể xác)

-> Sự gắn bó sâu nặng với đoàn quân Tây Tiến: dù đã rời  xa nhưng tâm hồn, tình cảm vẫn đi cùng đồng đội, vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi đã đi qua

  => Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm buồn nhưng vẫn toát lên vẻ hào hùng, ý chí, quyết tâm của người lính Tây Tiến

3. Ngôn ngữ và biểu tượng

– Trong bài thơ Tây Tiến, một số câu thơ được tổ chức theo hình thức ngôn ngữ đặc biệt (khác với lời nói thông thường) như: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”; “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”; “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”; “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Ví dụ:

– “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, sử dụng “dốc thăm thẳm”: kết hợp từ mới mẻ vì “thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu chứ không phải độ cao.

– “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, sử dụng toàn thanh bằng: gợi vẻ đẹp yên bình, nhẹ nhàng của vùng núi Tây Bắc.

4. Phong cách lãng mạn

– Một số biểu hiện của phong cách lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến:

+ Cảm hứng: Khẳng định, ngợi ca lí tưởng cứu nước, khí phách anh hùng và sự hi sinh cao cả của người lính Tây Tiến.

+ Hình tượng: Khám phá, khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn tinh tế, phóng khoáng, mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến.

+ Ngôn ngữ: Sự sáng tạo trong tổ chức theo hình thức ngôn ngữ đặc biệt, hình ảnh độc đáo.

+ Sử dụng nhiều yếu tố tương phản: khi khắc hoạ hình tượng thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng đoàn quân Tây Tiến.

III. Tổng kết

1. Về nội dung

Thông qua nỗi nhớ về một đơn vị, một vùng đất, một quãng đời chiến đấu, bài thơ đã thể hiện hào khí của tuổi trẻ Việt Nam trong buổi đầu chống Pháp đầy gian lao.

2. Giá trị nghệ thuật

- Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy tình cảm, cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng. Có thể nói đây là dòng cảm hứng xuyên suốt bài thơ, đọng lại trong lòng người nghe những thanh vang về nét đẹp con người, thiên nhiên Tây Bắc. Thiên nhiên nơi đây hiện lên thật nên trơ, trữ tình:

- Âm hưởng bi tráng. Bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.

- Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng.