Nội dung lý thuyết
- Lộng Chương (1918 – 2003) tên khai sinh là Phạm Văn Hiền, quê ở tỉnh Hải Dương, là đạo diễn sân khấu, nhà văn, nhà viết kịch tiêu biểu thuộc thế hệ văn nghệ sĩ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian từ cuối những năm 1940 đến cuối những năm 1990, ông đã sáng tác, viết lại, chỉnh lí hàng trăm vở kịch thuộc nhiều thể loại, nổi bật là: A Nàng (kịch thơ, 1960), Đôi ngọc lưu li (chèo, 1962), Tình sử Loa thành (tuồng, 1979),... Ông thành công nhất ở lĩnh vực hài kịch với các vở tiêu biểu như: Mối lo của cụ Cửu (1950), Hỏi vợ (1958), Yểm bùa trừ sâu (1959), Quẫn (1960), Cửa mở hé (1969),...
- Lộng Chương dã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.
Quẫn là vở hài kịch gồm năm hồi, được công diễn trong hơn hai mươi năm, với khoảng 2.000 buổi diễn, và trở thành tác phẩm kinh điển của hài kịch hiện đại Việt Nam. Năm 2018, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Lộng Chương, vở kịch lại dược công diễn trên sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội và thu hút được sự quan tâm của cả giới kịch nghệ lẫn công chúng.
Trước chủ trương công tư hợp doanh, các thành viên trong gia đình nhà tư sản dân tộc Đại Cát có những suy nghĩ khác nhau. Ông bà Đại Cát tìm mọi cách để che giấu và tẩu tánkhối gia sản tích cóp được lâu nay, trước khi chuyển xưởng dệt của gia đình thành xưởng dệt công tưhợp doanh. Hai ông bà một mặt giấu vàng sau mấy bức ảnh trong phòng khách, mặt khác đi sắm sửa của hồi môn cho con gái để tẩu tán tài sản. Mẹ Đại Cát – cụ Đại Lợi và em gái Đại Cát – bà Đại Hưng biết tin này, cũng dòi dược chia tài sản. Con gái Đại Cát là Thuý Trinh và người yêu cô – Hùng là những thanh niên hăng hái tham gia lao dộng kiến thiết, tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế của nhà nước. U Trinh – người làm công trong gia đình, tình cờ biết được chỗ hai ông bà Đại Cát giấu của, đã mách vớiThuý Trinh và Hùng. Cuối cùng, Thuý Trinh và người yêu đã thuyết phục được cha mẹ chấp thuận không“giấu của” nữa. Ông bà Đại Cát cũng nhận ra rằng mình đã "quẫn".
- Giấu của là đoạn trích từ Cảnh vào trò của vở hài kịch Quẫn.
* Nhân vật:
– Lời nói: gây hiểu lầm,…;
– Cử chỉ và hành động: được phóng đại,
gây tương phản, tạo nghịch lí;…
– Trạng thái “quẫn” trong đoạn trích: đây là
trạng thái do hai nhân vật tự tạo ra, tự mình
làm khổ mình.
-> Các suy nghĩ, toan tính, cảm xúc trong
nội tâm nhân vật đều được bộc lộ ra bên
ngoài thông qua lời nói, cử chỉ và hành động.
* Tình huống
Hai nhân vật ông bà Đại Cát vì muốn giữ tài sản, trốn tránh chủ trương công tư hợp doanh mà tìm mọi cách “giấu của” trong chính những bức ảnh chân dung của mình và của bà mẹ (cụ Đại Lợi) trong phòng khách nhà họ. Bên cạnh đó, trong đoạn trích lại có thể tìm thấy nhiều tình huống gây cười nhỏ: ngã vào nhau trong bóng tối, hiểu lầm khi đối thoại,…
-> Tình huống hài hước diễn ra trong cuộc sống sinh hoạt, thế sự với những toan tính đời thường, làm nổi bật những thói tật đáng cười của con người.
* Xung đột
– Lí tưởng: Mong muốn giấu của của hai ông bà Đại Cát. Ông bà Đại Cát tìm mọi cách để che giấu và tẩu tán khối gia sản tích cóp được lâu nay, trước khi chuyển xưởng dệt của gia đình thành xưởng dệt công tư hợp doanh.
– Thực tế (chuẩn mực xã hội): Hai ông bà bị “quẫn”.
-> Mâu thuẫn giữa những tham vọng, toan tính vật chất với những chuẩn mực và xu thế xã hội. Từ đó, tiếng cười của hài kịch cất lên từ sự vênh lệch giữa thực tế và lí tưởng.
* Hành động
Xoay quanh hành động “giấu của” của hai ông bà Đại Cát.
-> Chủ yếu là hành động bên ngoài, những toan tính, của nhân vật đều bộc lộ qua lời thoại, giúp tô đậm nét tính cách chủ đạo của nhân vật hay tính chất cực đoan của những toan tính-> Tiếng cười bật lên.
* Kết cấu
Kết cấu hài kịch được tổ chức trên cơ sở hành động “giấu của”:
– Phần 1. Mở đầu: Giới thiệu các nhân vật với thói tật và những toan tính.
– Phần 2. Thắt nút: Ông bà Đại Cát tìm mọi cách để che giấu và tẩu tán khối gia sản tích cóp được lâu nay, trước khi chuyển xưởng dệt của gia đình thành xưởng dệt công tư hợp doanh.
– Phần 3. Triển khai: Hai ông bà một mặt giấu vàng sau mấy bức ảnh trong phòng khách, mặt khác đi sắm sửa của hồi môn cho con gái để tẩu tán tài sản.
– Phần 4. Đỉnh điểm: Mẹ Đại Cát (cụ Đại Lợi) và em gái Đại Cát (bà Đại Hưng) biết tin này, cũng đòi được chia tài sản. Con gái Đại Cát là Thuý Trinh và người yêu cô (Hùng) là những thanh niên hăng hái tham gia lao động kiến thiết, tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế của nhà nước.
– Phần 5. Kết thúc: U Trinh – người làm công trong gia đình, tình cờ biết được chỗ hai ông bà Đại Cát giấu của, đã mách với Thuý Trinh và Hùng.
* Thủ pháp trào phúng và ngôn từ
– Tạo tình huống “quẫn”: Hai ông bà Đại Cát giấu của.
– Phóng đại cử chỉ, điệu bộ (phóng đại cử chỉ, điệu bộ giấu của trong đêm của hai ông bà).
– Tạo tương phản gây cười (lời nói thầm, nói không ra tiếng của hai
ông bà).
– Ngôn từ tăng cường tính trào phúng (nói lỡ, nói không ra tiếng,…): Đối thoại của hai nhân vật ông Đại Cát và bà Đại Cát, có nhiều chi tiết gây hiểu lầm hoặc gợi liên tưởng, loại ngôn ngữ “nói lỡ”, “nói không ra tiếng”.
-> Khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo ra tình huống trớ trêu, oái ăm, thúc đẩy xung đột kịch.
- Cách nhìn nhận vấn đề thời sự đặt ra trong tác phẩm có thể đã thay đổi theo thời gian, nhưng những suy tưởng mà nó gợi ra vẫn có giá trị trong thời hiện tại. Chẳng hạn, con người không nên đi ngược lại những chuẩn mực chung của tập thể và xã hội. Tỉnh táo để tránh tự mình làm khó mình, khiến mình rơi vào tình thế “quẫn”
- Đoạn trích phản ánh cảnh sống chân thực của giai cấp tư sản và bất cập trong chính sách quản lý của nhà nước ở giai đoạn lịch sử cụ thể. Nhiều thương gia rơi vào túng quẫn, khánh kiệt trước chính sách công tư hợp doanh của nhà nước.