Nội dung lý thuyết
Đề bài : Bình giảng bài ca dao : " Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa"
Bài làm
"Đồng Đăng có phố Kì Lừa" là một bài ca dao cổ. Có điều kì diệu là hầu như người Việt Nam nào, ngay từ thủa ấu thơ cũng đều thuộc và hát bài ca dao này. Trong tập thơ chữ Hán "Quế Sơn thi tập", Nguyễn Khuyến đã dịch bài ca dao nào ra thơ chữ Hán, theo thể hành trường thiên, gồm 28 câu thứ tự :
Đồng Đăng hữu phố
Kỳ Lừa quyết danh
Thạch hữu Tô Thị
Tự hữu Tam Thanh
Dư giã giai hĩ
Vô thiếm sơ sinh....
Đối chiếu thơ chữ Hán của Tam Nguyên Yên Đổ, ta có thể xác định được diện mạo bài ca dao gồm có 14 câu lục bát. Bài ca dao là lời nhắn gửi bạn tình phương xa, cùng anh lên xứ Lạng, nói như thi sĩ Tản Đà, đó là " Thư đưa người tình không quen biết" nghe mênh mang. Hai câu cuối máng như một lời sấm kí truyền kì :
Bao giờ chùa lở xuống sông
Đá tảng trôi mất, ngô đồng chơ vơ
Bốn câu trong đoạn đầu là hay nhất, dễ hiểu nhất :
Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em...
Hai câu đầu với cách ngắt nhịp 2/4/4/4/bằng 3 nét vẽ, nhà thơ dân gian đã giới thiệu một cách khái quát cảnh sắc Đồng Đăng thuộc tỉnh Lạng Sơn của đất nước ta :
Đồng Đăng /có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị /có chùa Tam Thanh
Phố Kỳ Lừa có chợ Kỳ Lừa nổi tiếng phồn hoa đô hội. Đó là một chợ biên giới Việt - Trung, không chỉ phong phú về hàng hóa, về lâm thổ sản mà còn nổi tiếng về chợ tình vùng cao. Giai điệu dân ca miền núi lửng lơ, chơi vơi, với sắc phục màu chàm, với những ngựa thồ sa nhân, hồi, măng khô, mộc nhĩ, những cô gái, chàng trai Nùng, Thổ, Tày....quấn quýt bên nhau đã trở thành nếp sông vật chất tinh thần, một nét đẹp văn hóa giầu bản sắc đã bao đời nay. Mấy trăm năm trước đã thế, ngày nay vẫn thế, tuy màu sắc có hiện đại hơn. Ai một lần trong đời mình đi đến thăm phố Kỳ Lừa, đi xem chợ Kì Lừa ? Kì Lừa tiếng Thổ là Khău Lừ. Đồng bào Thổ Lạng Sơn gọi chợ Kỳ Lừa là háng Khău Lừ (háng : Chợ, khau : núi đất, lừ : lửa). Chợ Kỳ Lừa nằm gần bờ sông Kỳ Cùng ngày nay.
Đồng Đăng " có nàng Tô Thị " còn gọi là núi Vọng Phu, một huyền tích đầy lệ về bi kịch vợ chồng, về tình nghĩa thủy chung của người phụ nữ Việt Nam. Ở Lạng Sơn, núi Vọng Phu còn gọi là núi Tam Thanh. Núi có động lớn còn gọi là động Tam Thanh; trong động có chùa thờ Phật,nhiều tượng Phật được đục vào đá. Tương truyền nàng Tô Thị đã ôm con thơ, đứng trên núi này ngón chồng và hóa đá.
Hai câu ca dao đã giới thiệu và ca ngợi cảnh sắc kì thú hữu tình của Đồng Đăng, là "nơi phên dậu thứ ba về phía bắc" (Dư địa chí - Nguyễn Trãi) của Đại Việt. Nó như dẫn hồn người gần xa, những du khách chìm sâu vào huyền tích, huyền thoại, tìm thấy bao niềm vui, bao nỗi buồn man mác, bâng khuâng về một địa danh trên ải Bắc, giàu truyền thống lịch sử và có nền văn hóa lâu đời.
Chữ "có" được điệp lại 3 lần diễn tả niềm say mê, hứng thú và tự hào của người dân xứ Lạng, của du khách khi đứng trước bao cảnh đẹp, bao di tích văn hóa. Cũng là lối tả ít mà gợi nhiều, hai câu ca đã mở ra một không gian nghệ thuật, như một cuộn phim mầu. Cảnh vật từ từ xuất hiện : Phố Kì Lừa, nàng Tô Thị, chùa Tam Thanh....có biết bao liên tưởng đồng hiện về cảnh vật, con người nơi đây.
Vê mặt cấu trúc, hai câu ca dao này mang tính định hình cho những bài nói về quê hương đất nước :
- Bắc Cạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh
- Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại có cù lao xanh
Hai câu tiếp theo là lời nhắn gọi, vẫy gọi :
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em...
"Ai" là đại từ phiếm chỉ, nói về tất cả mọi người. Đọc ca dao, nghe hát dân ca nhiều lúc ta cảm nhận có mình trong đó. Trong ca dao dân ca, trong văn cảnh này, chữ "ai" thường hướng vế những cô gái xinh đẹp trên mọi miền đất nước. "Ai lên xứ Lạng cùng anh" để có đôi, có bạn tình cùng san sẻ niềm vui nơi phồn hoa đô hội. Được " cùng anh" hành hương đến vãn cảnh chùa Tam Thanh, đến chiêm ngưỡng nàng Tô Thị, em sẽ "cùng anh" đi chơi phố, chơi chợ Kỳ Lừa. Hai chữ "cùng anh" - cùng sánh vai anh, thể hiện chất phong tình, hào hoa của chàng trai đang nhắn gọi, vẫy gọi trong du xuân, trẩy hội :
Dập dìu đôi lứa thanh xuân
Cùng đi trẩy hội chùa gần chùa xa
(Ca dao)
Có đi lên xứ Lạng " cùng anh" mới thỏa nỗi ước mong, mới " bõ công bác mẹ sinh thành ra em", kẻo phí đi, kẻo hoài đi một thời xuân trẻ. "Bõ công" nghĩa là đáng công, xứng công. Công ở đây là công sinh thành của cha mẹ đã sinh đẻ, bú mớm, nâng niu, nuôi dưỡng, dạy bảo em nên người. "Công cha nghĩa mẹ đức cù lao". Chữ " bác mẹ" nghĩa là cha mẹ, một cách gọi tôn kính người cha. Với phong cách phong tình hào hoa, với lối nói thậm xưng, tác giả đã ca ngợi cảnh đẹp Đồng Đăng là một cảnh đẹp hiếm có trên đời. Một cách tỏ tình bâng quơ thế mà đã làm xao xuyến tâm hồn bao thiếu nữ gần xa xưa nay.
Những tiếng " ai về", " ai lên", "ai qua"... trong ca dao, dân ca rất tình tứ, ý vị. Tình non nước, tình yêu lứa đôi được diễn tả một cách nồng nàn, say mê :
- Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền
-Ai về Tuy Phước ăn nem
Ghé qua Hưng Thịnh mà xem Tháp Chàm
Đoạn ca dao trên đây đã phản ảnh một nét đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam: Đó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm khao khát được sống trong tình duyên hạnh phúc khi lễ hội mùa xuân về
Chất dân dã với chất phong tình hào hoa, vẻ đẹp văn hóa với sinh hoạt đời thường kết hợp một cách hài hòa nên thơ. Phép liệt kê, cách nói thậm xưng đã tạo nên sức hấp dẫn hồn nhiên, tình tứ, gợi cảm.
Đọc đoạn ca dao trên, ta như được sống lại trong không khí lễ hội mùa xuân, tưởng như đang được cùng "ai" hành hương về Đồng Đăng xứ Lạng, cùng đến chơi phố, chơi chợ Kì Lừa, cùng say mê ngắm nàng Vọng Phu, cùng thăm hang động, chùa Tam Thanh. Để rồi cùng ai trầm ngâm :
" Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ"