Bài viết số 5 - Văn lớp 11

Nội dung lý thuyết

MỤC LỤC -Bài viết số 5 lớp 11

Đề 1: Người xưa có câu: " Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên.

Đề 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao?

Đề 3: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù" (Nguyễn Tuân)

Bài viết số 5 lớp 11

Đề 1: Người xưa có câu: " Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh chị hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên.
Bài làm

Nguyên văn câu nói là: 

Đàn ông chớ kể Phan Trần,

Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. 

Ông cha ta ngày xưa rất khe khắt. Đàn bà con gái có một số truyện tình lãng mạn, hoặc khiêu khích bị cấm đọc đã đành. Đàn ông cũng bị cấm những truyện tình ủy mị, nhu nhược ảnh hưởng tới chí nam nhi "Đầu đội trời, chân đạp đất.".

Truyện Phan Trần là một trong những chuyện các cụ cấm không cho đàn ông đọc vì chàng Phan Sinh chỉ vì quá yêu nàng Trần Kiều Liên mà sinh ra ốm tương tư rồi toan bề tự vận. Làm trai không thể yếu đuối, ươn hèn như vậy. Truyện Kiều cũng tương tự. 

Suốt trong thời kỳ Quân chủ, người Việt Nam chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. "Trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng" là một chứng minh cụ thể. Vì thế, người phụ nữ nào vượt ra ngoài "Tam Tòng, Tứ Đức" thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tam Tòng: Tại gia tòng phụ (người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha), Xuất giá tòng phu (lúc lấy chồng phải theo chồng), Phu tử tòng tử (khi chồng chết phải theo con). Tứ đức: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức). 

Trong cái xã hội phong kiến thối nát đề cao luân lý như vậy mà Kiều xuất hiện. Một cô gái tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người,... thì dưới con mắt của các nhà luân lý đạo đức vào thời xa xưa, đó là một truyện không tốt, có hại cho tuổi trẻ. Nhưng để hiểu được cái hay trong Truyện Kiều là một điều rất khó. Hầu như ai cũng cho Kiều là cô gái lầu xanh nhơ nhớp và mạt hạng: 

"Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,

Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm,

Bán mình trong bấy nhiêu năm,

Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai,

Nghĩ đời mà ngán cho đời." 

Nguyễn Công Trứ. 

Câu "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều." có thể được hiểu theo hai nghĩa. Một là đàn bà không nên đọc hay kể về truyện Kiều. Hai là Kiều bị gạt ra khỏi lề xã hội, không còn ai xem nàng là đàn bà. Thực ra, Kiều đáng thương hơn đáng trách. 

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. 

Một "hồng nhan" mà lại "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" sang nhà người thương. Nhiều người cho rằng đây là hành động sai trái và hư hỏng. Nhưng Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng. 

Nói đến trường hợp Kiều bán mình chuộc cha. Nhiều ý kiến cho đây là trường hợp đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha, mà cách bán mình chỉ là hạ sách. Nhưng, liệu Kiều có thể làm gì khác hơn để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù? Nhà cửa, ruộng đất của gia đình nàng cũng ở mức "Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung" thì lấy gì ra bán cho đủ tiền? Gánh vác gia đình vốn là công việc của trang nam nhi. Nhưng Kiều, một hồng nhan liễu yếu đào tơ phải gánh trên vai gánh nặng gia đình, phải quên mình vì cha, làm tròn lễ giáo phong kiến trong đạo làm con đối với cha mẹ. 

Chính sự bất công, hủ lậu của chế độ phong kiến đã gián tiếp gây nên những oan trái trong cuộc đời Kiều. Nếu không có bọn xấu hãm hại cha nàng, một Mã Giám Sinh "Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.", một Sở Khanh, một Tú Bà, một Bạc Bà,... thì cuộc đời nàng có lẽ cũng không đau thương như thế. 

Nàng đáng thương vì cuộc đời phong trần đầy đau khổ của nàng là do chế độ phong kiến gây ra. Mặc dù nàng đã nhiều lần cố gượng dậy, vươn lên sống tốt đẹp hơn, nhưng lần nào cũng bị chế độ phong kiến đè xuống lại chốn bùn nhơ. Bằng chứng là khi đã thoát ra khỏi lầu xanh, cuộc đời đưa đẩy khiến nàng lọt vào tay Bạc Bà, một tay buôn người để rồi trở lại nơi ngục tù trụy lạc. 

Thúy Kiều là một cô gái đáng để người đời khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Nàng hiếu nghĩa với cha mẹ, chung thủy trong tình yêu, ý thức sâu sắc về nhân phẩm con người... Tuy sống trong nơi lầu xanh, nơi vui thú của đủ loại khách làng chơi, nhơ nhuốc và đầy cạm bẫy, nhưng suy nghĩ của nàng rất chín chắn. 

Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay? 

Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người. 

Vậy, quan niệm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm 

Thúy Kiều không có tội. Nàng chỉ là một hồng nhan khao khát tình yêu và hạnh phúc bình thường. Chúng ta hãy nhìn nhận về nàng trên cơ sở khách quan, khoa học, có tình có nghĩa hơn. Hãy đồng cảm với nàng. Và cho dù nàng có sai đi chăng nữa, thì nàng vẫn là một người phụ nữ đáng được trân trọng.  

Bài viết số 5 lớp 11

Đề 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao?
Bài làm

Giữa lúc dòng văn học hiện thực phê phán (1930-1945) tưởng như chấm dứt thời kỳ vàng son của mình thì Nam Cao xuất hiện như một ngôi sao lạ trên bầu trời đầy sao. Với tác phẩm “Chí Phèo” (1940), Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực một điển hình nông dân mới lạ, sâu sắc, độc đáo với tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

Chí Phèo ra đời thật là thê thảm: “Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh cái lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho người đàn bà goá mù.Người đàn bà goá mù này bán hắn cho bác phó không con và khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở nhà nọ.Thân phận của đứa con hoang thật là bi thảm.May thay, xã hội cũng còn chút tình thương nên Chí mới có thể tồn tại mà trưởng thành.Nếu ở trong một xã hội bình thường thì Chí vẫn có thể trở thành người lương thiện.Năm 20 tuổi hắn đã là một thanh niên khoẻ mạnh làm canh điền cho Bá Kiến, “hắn ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải,chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.Nhưng mơ ước nhỏ nhoi như vậy cũng không thành.

Hắn cũng có lòng tự trọng.Khi bị bà Ba nhà cụ Bá gọi lên bóp chân, bóp đùi gì đó thì”hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.Nhưng bản chất lương thiện trong sáng ấy của Chí đã bị xã hội huỷ diệt.

Bá Kiến ghen với anh canh điền được bà Ba quyền thu quyền bổ trong nhà nên đã ngầm đẩy Chí Phèo đi ở tù.Sau bảy,tám năm tù, Chí trở về thành một tên lưu manh côn đồ.Nhà tù đã cướp đi bộ mặt lương thiện của hắn, biến hắn trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết”

Bá Kiến và nhà tù thực dân đã xô đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh tội lỗi.Từ đấy,đối với đời là một cơn say.Những cơn say của hắn tràn từ cơn này đến cơn khác.Hắn ăn trong lúc say,ngủ trong lúc say và thức dật hãy còn say,dập đầu,rạch mặt trong lúc say…để rồi say nữa, say vô tận.Hành vi lưu manh côn đồ của hắn có mấy biểu hiện:Hắn đập đầu, rạch mặt, đe doạ, ăn vạ, tống tiền bọn cường hào mà tiêu biểu là Bá Kiến.

Đối với dân làng, hắn là con quỷ dữ giết người không gớm tay. Dân làng ai cũng sợ hắn. Hắn lại bị bọn cường hào lợi dụng để thanh trừng lẫn nhau. Bá Kiến có lần đã sai Chí đi đòi nợ Đội Tảo. Chí làm được việc, vênh váo ra về “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.

Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa. Những người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường cùng đã quay lại chống trả bằng con đường lưư manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có Năm Thọ rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tượng đó chắc gì đã chấm đứt. Biết đâu lại có một Chí Phèo con ra đời trong cái lò gạch cũ?.

Điều chắc chắn là còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, không cho họ đựoc sống lương thiện thì họ phải rơi vào con đường lưu manh, giành lấy miếng ăn, tức là bị huỷ diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. “Chí Phèo”đã làm nổi bật cái quy luật tàn bạo đó của xã hội cũ.

Nhưng nếu truyện dừng lại ở đó thì Nam Cao không có gì mới hơn các nhà văn hiện thực phê phán đi trước. Nét đặc sắc và độc đáo của Nam Cao là đã rọi ánh sáng vào tâm hồn đen tối ấy để thấy rằng Chí Phèo vẫn còn một chút lương tri. Nhưng rọi bằng cách nào, Nam Cao đã rọi bằng ánh sáng của tình thương, tình yêu, chỉ có những tình cảm ấy mới có thể rọi vào tâm hồn của một con quỷ. Trong một cơn say, dưới đêm trăng ngoài bãi vắng, hắn vừa la làng vừa cưỡng ép Thị Nở, người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ở cái làng Vũ Đại này. Nhưng điều kì diệu là nếu như lúc đầu Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở người đàn ông say rượu Chí Phèo, thì sau đó sự chăm sóc đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc chân thành của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao động . Sau khi ăn bát cháo của Thị Nở thì Chí tỉnh hẳn. Hắn bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Lần đầu tiên từ ngày về làng, sáng dậy hắn nghe tiếng chim kêu,hắn nghe rõ tiếng cười nói của người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về…Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy đã trở thành tiếng gọi của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí.Cuộc gặp gỡ Thị Nở đã loé sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí. Chí bỗng nhận ra tất cả tinhg trạng bi đát cảu số phận mình. Tình yêu thương đã thức tỉnh Chí. Chí bỗng thấy thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao. Chí khao khát được mọi người nhận ra anh trở lại vào cái xã hội bằng phẳng của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người.

Nhưng tội nghiệp cho Chí Phèo, Chí mà cầu cứu vào Thị Nở để trở lại làm người lương thiện thì chẳng khác nào người sắp chết đuối vớ phải mảng bèo.Thị Nở là một phụ nữ u mê, đần độn. không tự định đoạt được vận mệnh của minh.Đã ở với Chí Phèo năm ngày năm đêm trong túp lều bên bờ sông, mà khi bà cô ngăn cản, thị lập tức chạy sang nhà Chí Phèo: “Thôi! Dừng yêu”. Cuộc đời Chí Phèo bị tường cao bao bọc chỉ còn một ngõ ngách để trở về cuộc sống lương thiện. Bà cô Thị Nở đứng ở đó và ngăn chặn. Chúng ta cũng không trách bà cô Thị Nở. Bà cũng như dân làng Vũ Đại đã quen coi Chí là tên lưu manh,là con quỷ dữ rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Chí Phèo thật sự đã bị xã hội cự tuyệt. Chí vật vã quằn quại trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống, Nhưng càng uống càng tỉnh ra, không nghe mùi rượu mà chỉ nghe mùi cháo hành. Hắn càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống say mèm. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. hắn lẩm bẩm; “Tao phải đâm chết nó”.Hắn định vào nhà Thị Nở thì lại vào đúng nhà Bá Kiến. Đây là một tình tiết của thiên tài, vì trong tiềm thức, trong vô thức Bá Kiến mới là kẻ thù chính của Chí. vả lại cũng thuộc đường, thuộc ngõ. Bá Kiến đang nằm ngủ trưa. Hắn đang nằm ngủ trưa. Hắn đang bực mình với bà Tư, không biết đi đâu mà lâu quá “Sao bà ấy còn trẻ quá, gần bốn mươi tuổi mà trông cứ phây phây, càng phây phây quá đi nữa! Mà thấy ghét những thằng trai trẻ…Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ ở tù”. Thì chinh lúc đó, con người trai trẻ bị hắn đẩy vào tù năm hai mươi tuổi vung dao xông vào. Chí Phèo dõng dạc: “Tao muốn làm người lương thiện..Không ai cho tao lương thiện”. Hắn vung dao nhào tới. Bá Kiến chết rồi hắn tự sát, khi người ta đến thì hắn “đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”. “Chí Phèo đã chết ở ngưỡng cửa trở về cuộc đời đóng chặt trước hắn. Chí đã chết trong niềm đau thương lớn lao và niềm khao khát mãnh liệt là được sống làm người nhưng đã bị cự tuyệt. Câu hỏi cuối cùng của Chí: “Ai cho tao lương thiện” là câu hỏi phẫn uất, đau đớn còn làm day dứt người đọc. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là vấn đề có ý nghĩa xã hội, có ý nghĩa triết học, có tầm vóc lớn lao.

Nhân vật Chí Phèo là một điển hình nông dân mới mẻ, độc đáo, sâu sắc mà Nam Cao đã góp vào cho dòng văn học hiện thực. Với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, với cách phân tích tâm lí sâu sắc, Nam Cao đã đặt ra và giải quyết tấn bi kịch của người nông dân. Bi lkịch bị cự tuyệt quyền làm người. Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo xã hôij thực dân phong kiến. Xã hội đó đã cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Và Nam Cao chẳng những là một nhà văn hiện thực sâu sắc mà còn là một nhà văn có tinh thần nhân đạo cao quý. 

Bài viết số 5 lớp 11

Đề 3: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù" (Nguyễn Tuân)
                                                                                                          Bài làm

             Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và biết quý trọng cái tài làm ra cái đẹp ấy. Ông thích ai, quý mến ai thì ông cho chữ, tặng chữ và biết giá trị những chữ mình viết ra : “ Chữ thì quý thực . Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ, cũng mới viết có hai bộ tứ hình và một bức trung đường cho ba người bạn thân ta thôi”.

           Mà đúng là chữ Huấn Cao quý thật. Bởi vậy nên viên quản ngục và người thơ lại mới phải kiên trì và dụng công để xin bằng được chữ của ông, bất chấp mọi hiểm nguy đe dọa đến tính mạng.
           Trước thái độ khác thường của viên quản ngục, lúc đầu ông có ý nghi ngờ, khó chịu. Sau này, lúc vỡ lẽ ra, ông nhận thấy viên quản ngục này chính là hạng người biết thưởng thức cái đẹp, biết quý cái đẹp và trân trọng người làm ra cái đẹp. Cho nên ông đã chủ động bảo với người thơ lại rằng ông đồng ý cho chữ. Điều khiến ông hạ bút lần này là do cảm kích trước lòng thành và thái độ biết yêu, biết lưu giữ cái đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: “ Ta cảm cái tấm lòng biệt nhãn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
           Ông Huấn Cao cho chữ kèm theo lời khuyên viên quản ngục phải lánh xa nơi tù ngục, hãy tắm gội mình trong trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì mới giữ được tính lành trời sinh và mới có thể theo đuổi được thú chơi chữ đẹp. Hành động cho chữ của Huấn Cao thể hiện ý thức lưu truyền cái đẹp cho đời sau. Và trước mắt, ông muốn cứu vớt một con người ra khỏi chốn bùn nhơ, trả lại thiên lương cho người ấy. Đây cũng là hành động vì nghĩa cao cả của ông.
Quang cảnh của ông Huấn Cao cho chữ vừa lạ, vừa đẹp, vừa có vẻ như một ảo ảnh trong cõi thần thoại : “ Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Buồng giam chật hẹp, bẩn thỉu, ẩm ướt và tối mịt. Ánh đuốc đỏ rực soi tỏ ba bóng người, trong đó người mang gông, chân vướng xiềng đang cầm bút thoăn thoắt viết trên mặt lụa. Đó là Huấn Cao. Viết xong, ông đỡ viên quản ngục đứng dậy, “ rồi nhìn lại chữ mình viết đẹp tươi, nó nói lên hoài bão tung hoành của một đời người”. Cuối cùng, ông đĩnh đạc khuyên viên quản ngục lời khuyên đầy thiện tâm, thiện ý.