Bài văn số 6 - Đề 4

Nội dung lý thuyết

Đề 4:  Dân gian có câu: Lời nói gói vàng, đồng thời lại có câu: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Qua hai câu trên, em hãy cho biết dân gian đã hiểu như thế nào về giá trị, ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống.

Bài làm

     Tục ngữ Việt Nam có khá nhiều câu nêu kinh nghiệm về giá trị của lời nói và cách nói năng trong cuộc sống. Tiêu biểu trong số đó có thể kể đến hai câu sau đây: “Lời nói, gói vàng” và “Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

     Khi mới đọc tưởng như hai câu tục ngữ trên có ý nghĩa trái ngược nhau bởi một câu để cao giá trị của lời nói qua phép so sánh kết hợp với phóng đại: lời nói như cả gói vàng, một câu lại khẳng định lời nói chẳng mất tiền mua, đó là phương tiện giao tiếp người ta sẵn có, tuỳ ý mình sử dụng. Nhưng thực ra hai câu này, tuy dài ngắn khác nhau, một câu ví von bóng bẩy, mang hàm ý, một câu giản dị trực tiếp nêu lời khuyên nhủ, song chúng đều có chung ý nghĩa sâu sắc là đề cao giá trị của lời nói và nêu kinh nghiệm khi giao tiếp bằng lời: phải lựa chọn từ ngữ sao cho chính xác, phù hợp, chọn cách nói sao cho tế nhị, dễ nghe.

     Vì sao lời nói tuy “chẳng mất tiền mua” nhưng lại được so sánh với vàng - một thứ kim loại quý hiếm, có giá trị rất cao? Vì sao khi giao tiếp lại phải “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”? Ai cũng biết: người bình thường khi sinh ra sau “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi”, sẽ dần biết nói. Vốn từ ngữ tiếng mẹ đẻ của mỗi người sẽ ngày càng phong phú hơn theo thời gian, cùng với sự trưởng thành và quá trình học tập (nếu có) của từng người. Hằng ngày, con người chủ yếu dùng ngôn ngữ để giao tiếp. Bởi vậy, thật thiệt thòi cho những người mắc khuyết tật khiến không nghe được không nói được. Lời nói là cây cầu âm thanh rất quý giá nhưng loại công cụ này không chỉ có lợi mà còn có hại nếu như ta “ăn không nên đọi, nói không nên lời” hoặc nói ra những lời vô duyên, bậy bạ, không đúng sự thật hay “nói lời mà chẳng giữ lời...”. Thông thường, bằng thính giác, ta nhận ra sự có mặt của ai đó qua giọng nói của người ấy nhưng để đánh giá tính cách, trình độ, thái độ của người ấy thì phải dựa vào lời nói và việc làm của họ. Lời nói gồm nội dung, ý nghĩa câu chữ và giọng điệu của người nói. Nếu biết “lựa lời”, tức là biết chọn lọc từ ngữ, giọng điệu và thời điểm nói, thì lời nói ấy sẽ làm “vừa lòng” người nghe, cuộc đối thoại sẽ đi đến kết quả tốt đẹp. Ngay cả khi ai đó có sự khúc mắc, mâu thuẫn với người khác, nếu có được người biết khéo léo, hoà giải đôi bên bằng những lời lẽ thấu tình, đạt lý, sắc sảo, thấm thìa mà vẫn nhẹ nhàng; dễ tiếp thu thì hẳn là mâu thuẫn sẽ được giải quyết êm đẹp bởi “nói phải củ cải cũng nghe”. Ngược lại, nếu phát ngôn tuỳ tiện, tục tĩu, ba hoa khoác lác, hoặc vu khống, xuyên tạc thì người nói sẽ bị chê cười, khinh ghét, còn có thể gây nên những hiểu lầm ngoài ý muốn, thậm chí gây những xích mích, xô xát dẫn đến những hậu quả nặng nề. Báo chí đã từng đăng không ít thông tin về những vụ việc đánh, giết nhau chỉ vì một lời đùa cợt, một câu chửi thề vu vơ hoặc những lời đàm tiếu vô tâm hay ác ý...

     Lời nói chỉ thực sự là “gói vàng” khi đó là những lời hay, ý đẹp được nói đúng lúc, đúng chỗ, là những lời chân thực, có trọng lượng, giàu sức thuyết phục, là lời nói đi đôi với việc làm. Lời nói đẹp không chỉ là những câu thơ, câu văn trau chuốt, bóng bảy của các nghệ sĩ ngôn từ hay những bài diễn thuyết hùng hồn của các nhà hùng biện. Đó có thể chỉ là những lời lẽ tự nhiên, giản dị mà vẫn đi vào lòng người. Câu hỏi rất đỗi ân tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi lễ đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” đã làm xúc động hàng triệu trái tim người dân Việt Nam. Ngay cả những tiếng chào hỏi, lời xin lỗi, câu cảm ơn hằng ngày chúng ta nói với người xung quanh cũng có thể khiến người khác thấy ấm lòng, vơi bớt sự nhọc nhằn, bực bội. Quả là:

“Chẳng được phẩm oản mâm xôi
Cũng được lời nói cho vui tấm lòng”.

Mỗi người đều có thể tạo ra những câu nói đẹp, có văn hoá nếu có ý thức “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, “nghĩ rồi hẵng nói” và “Lời nói đi đôi với việc làm”.

“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng, dễ nghe”.

     Người khôn biết ăn nói dễ nghe, biết “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nhưng cần phân biệt lời nói “dịu dàng”, thanh lịch với những lời đường mật, giả dối; phân biệt việc biết nói gì, nói vào lúc nào để đạt được mục đích giao tiếp với kiểu nói năng “ậm ừ cho qua”, “dĩ hoà vi quý”, né tránh tranh luận khi cần đấu tranh bảo vệ lẽ phải. Nói sao cho vừa lòng nhau cũng không phải là sự tỉ tê, nịnh nọt, tâng bốc người khác để chuộc lợi cho bản thân. Chúng ta cần học cách nói năng, ứng xử của những “người khôn”, “người thanh” theo quan niệm dân gian về lờiăn tiếng nói. Đồng thời cũng không nên ngại nói thẳng, nói thật vì sợ mất lòng; cần nhắc nhở, phê phán những người ăn nói vô văn hoá, không hiểu biết mà cứ nói bừa; nhất là phải lên án thói xu nịnh, xuyên tạc, đặt điều... Có như vậy những lời nói “chẳng mất tiền mua” mới có thể trở thành phương tiện giao tiếp hữu hiệu, thành những âm thanh đẹp của cuộc đời.

     Ngôn ngữ là tài sản chung của toàn xã hội, nhưng lời nói là tài sản riêng của mỗi cá nhân. Nhớ ghi những lời khuyên dạy của người xưa, mỗi chúng ta hãy luôn có ý thức làm giàu có thêm cho kho tài sản vô hình ấy. Đó chính là một biểu hiện cụ thể của sự, tiếp thu kinh nghiệm và tri ân người đi trước, phấn đấu tự hoàn thiện mình.