Nội dung lý thuyết
- Với các hiệp ước Hác-măng và Pa-tơ-nốt, thực dân Pháp đã cơ bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam.
- Bất chấp sự đầu hàng của triều đình, những cuộc đấu tranh của một số quan lại, văn thân, sĩ phu và nhân dân chống Pháp vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ.
- Dựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân, phái chủ chiến trong triều đình Huế, Tôn Thất Thuyết (Thượng Thư bộ Hình) mạnh tay hành động. Họ phế bỏ những ông vua thân Pháp, đưa Ưng Lịch lên làm vua (Hàm Nghi); bí mật liên kết với sĩ phu,văn thân các nơi, xây dựng hệ thống sơn phòng, ra sức tích trữ lương thảo và vũ khí để chuẩn bị chiến đấu.
- Hành động của phái chủ chiến nhằm chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy chống Pháp. Vì vậy, Pháp tăng cường lực lượng và tìm cách loại phe chủ chiến.
- Trước sự uy hiếp ngày càng trắng trợn của kẻ thù, Tôn Thất Thuyết và những cộng sự của ông đã quyết định nổ súng để giành thế chủ động. Đêm mùng 4, rạng sáng mùng 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh cho các đạo quân của mình tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ.
- Sáng 5/7, quân Pháp phản công, đánh thẳng vào nội thành. Chúng cướp bóc, tàn sát nhân dân. Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng rời lên sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị).
- Ngày 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết nhân dân vua xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước.
- Chiếu Cần Vương đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, tạo thành một phong trào vũ trang chống Pháp sôi nổi, kéo dài liên tục trong 10 năm mới chấm dứt.
a. Giai đoạn từ năm 1885 đến năm 1888
- Lãnh đạo: Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, văn thân, sĩ phu yêu nước.
- Lực lượng: đông đảo nhân dân, có cả dân tộc thiểu số.
- Địa bàn: rộng lớn, khắp Bắc và Trung Kì. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, Đề đốc Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật (Hưng Yên), ...
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi rơi vào tay giặc. Nhà vua đã hiên ngang cự tuyệt mọi sự dụ dỗ của Pháp, chịu án lưu đày sang An-giê-ri (Bắc Phi).
b. Giai đoạn từ năm 1888 đến 1896
- Lãnh đạo: văn thân, sĩ phu yêu nước.
- Địa bàn: Thu hẹp, quy tụ dần thành các trung tâm lớn, chuyển trọng tâm hoạt động lên vùng trung du và miền núi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Cao Điển và Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo….
- Năm 1896, phong trào Cần Vương chấm dứt.
* Nhận xét chung
- Tính chất của phong trào Cần vương là phong trào yêu nước chống thực dân Pháp mang tính ý thức hệ phong kiến, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
- Lực lượng lãnh đạo phong trào Cần Vương là các văn thân sĩ phu yêu nước. Họ liên kết với các thổ hào địa phương, tập hợp đông đảo nhân dân trong vùng chống Pháp.
- Mục tiêu của phong trào là chống Pháp, giành độc lập, khôi phục lại trật tự xã hội phong kiến cũ.
- Lực lượng tham gia chủ yếu là các văn thân sĩ phu và nông dân.
- Hình thức đấu tranh là vũ trang bạo động.
- Nguyên nhân thất bại:
+ Nguyên nhân khách quan: Thực dân Pháp đang trong thời kỳ phát triển đế quốc chủ nghĩa, đã củng cố được nền thống trị thuộc địa nên lực lượng rất mạnh.
+ Nguyên nhân chủ quan:
Phong trào Cần Vương là phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ phong kiến, một ngọn cờ đã lỗi thời nên không còn đủ sức lôi kéo, tập hợp đoàn kết nhân đân đánh giặc.
Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương nhìn chung diễn ra lẻ tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cuộc khởi nghĩa để tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Phong trào Cần vương thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo để đưa ra đường lối cứu nước đúng đắn…
- Ý nghĩa phong trào Cần vương
+ Phong trào thể hiện tinh thần yêu nước bất khuất, ý chí quật cường của nhân dân ta mà chủ yếu là nông dân nhằm thực hiện mục tiêu cao cả chống thực dân Pháp cứu nguy cho Tổ quốc.
+ Tuy cuối cùng thất bại nhưng phong trào có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước và đấu tranh của nhân dân ta.
+ Đó là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn cho trào lưu dân tộc chủ nghĩa mới ra đời trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX.
- Sự thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX nói chung và phong trào Cần vương nói riêng đã cho thấy con đường đấu tranh theo ý thức hệ tư tưởng phong kiến đã không còn phù hợp, không mang lại thành công. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam đặt ra yêu cầu cần phải tìm ra con đường đấu tranh mới để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
- Lãnh đạo: Nguyễn Thiện Thuật, Đốc Tít
- Căn cứ chính: Bãi Sậy (Hưng Yên)
- Địa bàn hoạt động: Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình…
- Diễn biến chính:
+ Từ năm 1885 đến năm 1887, xây dựng căn cứ Bãi Sậy, tỏa ra hoạt động ở đồng bằng. Nghĩa quân tổ chức thành những phân đội nhỏ từ 10-15 người, trà trộn vào dân để hoạt động.
+ Từ năm 1888, nghĩa quân chiến đấu quyết liệt, di chuyển linh hoạt, đánh thắng một số trận lớn, đặt biể là trận Liêu Trung.
+ Sau nhiều ngày chiến đấu, lực lượng nghĩa quân giảm sút nhiều. Giữa năm 1889, căn cứ Hai Sông bị Pháp bao vây, Đốc Tít phải ra hàng giặc và bị đày sang An-ghê-ri. Năm 1892, những lực lượng cuối cùng về với nghĩa quân Yên Thế.
- Kết quả, ý nghĩa: Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là về phương thức tổ chức hoạt động và tác chiến trên địa hình đồng bằng, đất hẹp, người đông.
- Lãnh đạo là Phạm Bành, Đinh Công Tráng
- Dựa vào địa hình ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê (Nga Sơn, Thanh Hóa). Căn cứ này là một công trình phòng thủ khá vững chắc.
- Xây dựng căn cứ độc đáo: chiến luỹ bằng những sọt tre nhồi rơm trộn bùn, dày 8 -10 mét, trên mặt có các lỗ châu mai, rào kín bằng luỹ tre, cuối cùng là vòng cọc tre vót nhọn cắm quanh chân thành.
- Nghĩa quân có khoảng 300 người, hoạt động chủ yếu là chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch, các toán lính hành quân qua căn cứ.
- Tháng 12/1886, Pháp tập trung quân tấn công vào Ba Đình nhưng thất bại.
- Ngày 06/01/1887, địch huy động 2500 quân bao vây căn cứ.
* Kết quả - ý nghĩa
- Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, nghĩa quân mở đường máu rút ra ngoài. Sáng 21/01/ 1887, địch chiếm được căn cứ. Nghĩa quân rút lên Mã Cao, sáp nhập với nghĩa quân Cầm Bá Thước.
- Nhiều thủ lĩnh hy sinh hoặc bị bắt. Đinh Công Tráng cố gây dựng lại phong trào. Năm 1887, ông bị Pháp giết hại, khởi nghĩa tan rã.
- Xây dựng kiên cố độc đáo, khó tiếp cận,
- Thuận lợi cho việc kiểm soát các tuyến giao thông.
* Điểm yếu
Thủ hiểm ở một chỗ dễ bị cô lập, dễ bị bao vây ,chỉ có thể áp dụng lối đánh chiến tuyến, tập kích, phục kích, không cơ động linh hoạt.
- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng, Cao Thắng.
- Căn cứ chính: Hương Khê (Hà Tĩnh).
- Địa bàn hoạt động khắp 4 tỉnh Bắc – Trung Kỳ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình).
- Diễn biến chính:
+ Từ 1885 đến 1888: chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu.
+ Từ 1888 đến 1895: giai đoạn chiến đấu quyết liệt.
+ Từ 1889 liên tục tập kích, đẩy lui nhiều cuộc hành quân càn quét của địch. Nổi tiếng là trận tấn côn đồn Trường Lưu, tập kích thị xã Hà Tĩnh, tấn công tỉnh lị Nghệ An… Trận đồn Nu (Thanh Chương), Cao Thắng hy sinh. Tháng 10/1894, nghĩa quân thắng lớn trong trận phục kích ở núi Vụ Quang.
+ Sau trận này, tay sai của Pháp do Nguyễn Than chỉ huy vây hãm núi Vụ Quang. Nghĩa quân bị triệt đường tiếp tế, Phan Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh năm 1895. Năm 1896, khởi nghĩa kết thúc.
- Kết quả - ý nghĩa:
+ Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương, có quy mô rộng lớn, tổ chức tương đối chặt chẽ, lập được nhiều chiến công và gây cho địch tổn thất nặng nề. Cuộc khởi nghĩa đã huy động đến mức cao độ sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của nhân dân.
+ Khởi nghĩa Hương Khê thất bại do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do nghĩa quân chưa biết liên kết, tập hợp lực lượng, phát triển thành phong trào toàn quốc. Đó cũng chính là những hạn chế của thời đại, của bộ phận lãnh đạo phong trào Cần Vương nói chung.
- Lãnh đạo: Hoàng Hoa Thám.
- Địa bàn: Yên Thế - Bắc Giang.
- Diễn biến chính: chia làm 4 giai đoạn.
+ Giai đoạn 1 (1884-1892): Nghĩa quân còn hoạt động lẻ tẻ, chưa có sự lãnh đạo và chỉ huy thống nhất. Sau khi Đề Nắm bị giết (4/1892), Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân.
+ Giai đoạn 2 (1893-1897): Nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động ra nhiều vùng ở Bắc Giang, Bắc Ninh và xây dựng lại căn cứ Hố Chuối. Trong giai đoạn này, nghĩa quân đã hai lần đình chiến với Pháp, vào tháng 10/1894 và tháng 12/1897 để ngầm củng cố lực lượng.
+ Giai đoạn 3 (1898-1908): Tranh thủ thời gian đình chiến kéo dài, nghĩa quân tích cực tổ chức sản xuất, sắm sửa vũ khí, luyện tập quân sự. Nhiều nhà yêu nước từ các nơi trong nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đã tìm lên Yên Thế.
+ Giai đoạn 4 (1909-1913): Thực dân Pháp tấn công trở lại. Từ đây, phong trào suy yếu dần, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh hoặc sa vào tay giặc. ngày 10/2/1913, Đề Thám bị ám sát, ít lâu sau, phong trào tan rã.
- Kết quả - ý nghĩa:
+ Khởi nghĩa Yên Thế là một phong trào đấu tranh tự vệ chống Pháp lớn nhất của nông dân trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sự tồn tại bền bỉ của phong trào đã nói lên tiềm năng, ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông dân chỉ có thể trở thành lực lượng cách mạng thực sự khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường.
+ Mặc dù bị thất bại, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế vẫn có vị trí hết sức to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc, vì nền độc lập, tự do của đất nước, để lại nhiều tấm gương và bài học kinh nghiệm quý báu.