Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác=> Nhận xét: Từ khi nước ta bị sự thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc thì xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc, tầng lớp nghèo khổ ngày càng đông đảo.
- Từ thế kỷ I đến thế kỷ VI, người Hán thâu tóm quyền lực, trực tiếp cai quản đến các huyện. Từ huyện trở xuống do người Việt cai quản.
- Trường dạy chữ Hán được mở ở các quận.
- Nho giáo, Đạo giáo và luật lệ, phong tục tập quán của người Hán du nhập vào nước ta.
=> Nhân dân vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên, vẫn giữ phong tục tập quán người Việt: ăn trầu, nhuộm răng, làm bánh chưng, bánh dày… Học chữ Hán nhưng vận dụng theo cách đọc riêng của mình.
- Do chính sách thống trị dã man, tàn bạo của chính quyền đô hộ, nhân dân ta căm phẫn đã nổi dậy ở nhiều nơi.
- Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, em gái của một hào trưởng huyện miền núi Quan Yên - Cửu Chân (ngày nay là huyện Yên Định - Thanh Hóa). Bà là người có sức khỏe, chí lớn và giàu mưu trí.
- Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Phú Điền (Thanh Hoá). Bà Triệu lãnh đạo nghĩa quân tiến về phá các thành ấp quân Ngô ở Cửu Chân rồi đánh khắp Giao Châu.
- Được tin, nhà Ngô cử tướng Lục Dận đem 6.000 quân sang đàn áp, chúng vừa đánh, vừa mua chuộc, tìm cách chia rẽ nghĩa quân.
- Thế giặc mạnh, nghĩa quân chống đỡ không nổi, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Bà Triệu anh dũng hy sinh trên núi Tùng (Phú Điền - Hậu Lộc - Thanh Hóa).
- Cuộc khởi nghĩa thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân tộc ta, đặc biệt là tinh thần đấu tranh anh dũng của người phụ nữ.
- Nhân dân ta đã lập đền thờ để tướng nhớ đến vị anh hùng dân tộc - Bà Triệu.
* HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
Trả lời :
- Xã hội thời Văn Lang - Âu Lạc đã bị phân hóa thành 3 tầng lớp : quý tộc, nông dân công xã và nô tì.
- Xã hội đã có sự phân biệt giầu nghèo, địa vị sang hèn. Bộ phận giàu chỉ là số ít gồm vua, Lạc tướng, Bồ chính, gọi chung là quý tộc. Họ chiếm địa vị thống trị và bóc lột đông đảo thành viên công xã.
Trả lời :
Bộ phận đông đảo nhất của xã hội Âu Lạc là thành viên các công xã, bao gồm nông dân và thợ thủ công. Họ là tầng lớp làm ra của cải vật chất cho xã hội. Họ bị bóc lột, phải nộp một phần thu hoạch của mình và tạp dịch cho các gia đình quý tộc.
Trả lời :
- Trước khi bị phong kiến Trung Quốc đô hộ, xã hội nước ta thời Văn Lang - Âu Lạc đã bị phân hóa thành 3 tầng lớp : quý tộc, nông dân công xã và nô tì. Quý tộc (đứng đầu là vua), nông xã, công xã và nô tì. Trong đó vua và quý tộc giữ địa vị thống trị và bóc lột đông đảo thành viên công xã.
- Từ khi bị phong kiến phương bắc đô hộ, xã hội Âu Lạc tiếp tục bị phân hóa : tầng lớp thống trị, có địa vị và quyền lực cao nhất là bọn quan lại, địa chủ người Hán. Tầng lớp quý tộc người Âu Lạc bọ mất quyền lực, các chức Lạc tướng, Bồ chính bị bãi bỏ. Các tầng lớp mới được hình thành : địa chủ Hán, hào trưởng Việt và nông dân lệ thuộc.
Trả lời :
Địa chủ Hán là những quan lại người Hán, do chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân ta, lập ra các trang trại, xây dựng dinh thự, cướp bóc của cải mà trở thành địa chủ giầu có.
Trả lời :
Hào trưởng Việt : được hình thành từ tầng lớp quý tộc người Âu Lạc bị mất quyền lực, là những người giầu có, có thế lực ở các vùng. Họ bị quan lại và địa chủ Hán chèn ép, khinh rẻ, nhưng có vai trò quan trọng ở địa phương và có uy tín trong nhân dân, trở thành lực lượng lãnh đạo nhân dân đấu tranh đánh đuổi bọn đô hộ, giành độc lập dân tộc.
Trả lời :
Nông dân lệ thuộc là nông dân công xã do bị địa chủ Hán chiếm đoạt ruộng đất nên biến thành nông dân lệ thuộc, nhiều người rơi vào cảnh nợ nần, túng thiếu, phải phụ thuộc vào địa chủ Hán.
Trả lời :
Nô tì ở thời Văn Lang - Âu Lạc vẫn còn tồn tạo trong thời kì đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Họ là tầng lớp cuối cùng của xã hội, chuyên phục dịch cho gia đình quý tộc và những công việc nặng nhọc khác.
Trả lời :
Chính quyền mở một số trường học ở nước ta nhằm mục đích :
- Tạo ra một tầng lớp người Việt nhằm mục đích phục vụ cho chính quyền đô hộ.
- Tuyên truyền luật lệ, phong tục tập quán của người Hán
- Tuyên truyền tôn giáo (Nho giáo, Đạo giáo) là công cụ phục vụ cho mục đích xâm lược của chúng.
Trả lời :
Tất cả những việc mở trường học, tuyên truyền các tôn giáo và một số phong tục tập quán, luật lệ Hán ,... được truyền vào nước ta nhằm âm mưu "đồng hóa" dân tộc ta.
Trả lời :
- Nho giáo hay Khổng giáo do Khổng Tử (Thế kỉ VI-V TCN) lập ra ở Trung Quốc. Theo Nho giáo, mọi người phải coi vua là "Thiên tử" (Con trời) và có quyền quyết định tất cả
- Đạo giáo, do Lão Tử sáng lập ở Trung Quốc, cùng thời với Khổng Giáo, khuyên người ta sống theo số phận, không làm việc gì trái với tự nhiên.
- Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, cùng thời với Nho giáo, khuyên mọi người hãy thương yêu nhau, làm điều lành, tránh điều ác.
Trả lời :
- Nhân dân ta ở trong các làng xã vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sinh hoạt theo nếp sống riêng với những phong tục cổ truyền như xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh giầy, bánh chưng,...
- Trải qua nhiều thế kỉ tiếp xúc và giao dịch, nhân dân ta đã học được chữ Hán nhưng vận dụng theo cách đọc của mình.
Trả lời :
- Trường học do chính quyền đô hộ mở để dạy tiếng Hán, song chỉ có tầng lớp trên mới có tiền cho con theo học, còn tuyệt đại đa số nhân dân, lao động nghèo khổ không có tiền cho con em mình đi học, do vậy họ vẫn giữ được phong tục tập quán, tiếng nói của tổ tiên.
- Do các phong tục tập quán, tiếng nói của tổ tiên đã được hình thành, xác định vững chắc từ lâu đời. Nó đã trở thành đặc trưng riêng của người Việt, bản sắc dân tộc Việt và có sức sống bất diệt.
Trả lời :
* Đấu tranh chống đồng hóa, giữ gìn phong tục, tập quán của tổ tiên.
- Giữ tiếng nói riêng của mình
- Chống lại đạo Nho
- Giữ gìn văn hóa dân tộc, các phong tục cổ truyền : nhuộm rưng, ăn trầu, làm bánh chưng, bánh giầy,...
* Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa người Hán làm thêm phong phú nền văn hóa của dân tộc.
Trả lời :
Nguyên nhân dẫn tới khởi nghĩa Bà Triệu là do :
- Chính sách thống trị tàn bạo của nhà Ngô
- Nhân dân ta không cam chịu áp bức, bóc lột nặng nề đã đứng lên đấu tranh giành độc lập.
Trả lời :
- Giao Chỉ là vùng đất cai trị của người Hán, đất rộng người nhiều, hiểm trở độc hại
- Nhân dân Giao Chỉ không bao giờ chịu cảnh áp bức bóc lột, sẵn sàng nổi dậy đấu tranh giành độc lập tự chủ.
Trả lời :
Bà Triệu có tên là Triệu Thị Trinh, em gái Triệu Quốc Đạt - một hào trưởng lớn ở miề núi huyện Quang Yên, thuộc quận Cửu Chân (Yên Định, Thanh Hóa). Bà là người có sức khỏe, có chí lớn và giàu mưu chí. Năm 19 tuổi, bà đã cũng anh trai tập hợp nhiều nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, mài gươm, luyện võ, chuẩn bị khởi nghĩa.
Trả lời :
Câu nói của Bà Triệu thể hiện ý chí đấu tranh kiên cường, đánh đuổi giặc Ngô giành lại độc lập dân tộc, không chịu làm nô lê cho quân giặc Ngô. Bà nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân cho nền độc lập dân tộc.
Trả lời :
- Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Từ căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh Hóa), Bà Triệu lãnh đạo nghĩa quân đánh phá các thành ấp của nhà Ngô ở quận Cửu Chân, rồi từ đó đánh ra Giao Châu.
- Nhà Ngô cử 6000 quân sang đàn áp. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Bà Triệu hy sinh trên núi Tùng (Phú Điền - Hậu Lộc - Thanh Hóa)
Trả lời :
- Câu ca dao nói lên niềm tự hào của nhân dân về Bà Triệu (người phụ nữ có khí phách anh hùng) và tinh thần sẵn sàng hưởng ứng cuộc khởi nghía của Bà - Người phụ nữ chăm lo việc gia đình cho người chồng yên tâm đi chiến đấu để đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập cho đất nước.
- Bài ca dao trên đã trở thành những bài hát ru con của những bà mẹ trẻ ở làng quê Việt Nam
Trả lời :
Theo em, "Vua Bà" trong hai câu thơ trên là nói về Bà Triệu.
Hai câu thơ muốn nói lên khí phách kiên cường bất khuất, dũng mãnh của Bà Triệu khi ra trận.
Trả lời :
Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, phụ nữ đã tích cực hưởng ứng, tham gia và họ đã có những đóng góp quan trọng :
- Trực tiếp tổ chức, chỉ huy cuộc kháng chiến, khởi nghĩa chống quân xâm lược Hán mà tiêu biểu là Hai Bà Trưng.
- Là lực lượng đông đảo tham gia cuộc khởi nghĩa và kháng chiến chống quân xâm lược Hán
- Thực sự nắm quyền ở nhiều địa phương (Lê Chân, Thiều Hoa,..)
- Xây dựng hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc.
Trả lời :
Khu lăng mộ Bà Triệu nằm trên ngọn núi Tùng (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Cách đó không xa khoảng 1km, đối diện với lăng và tháp là đền thờ Bà Triệu (Trên núi Gai). Sau khi Bà Triệu hi sinh, để ghi dấu nơi Bà ngã xuống và để tỏ lòng tôn kính, biết ơn đối với người phụ nữa có công với dân với nước, nhân dân các đời sau này đã xây lăng, dựng tháp trên đỉnh núi Tùng. Tuy đơn sơ, giản dị nhưng tôn nghiêm, thể hiện phần nào khí phách hiên ngang của vị nữ tướng đã hi sinh cho nền tự chủ của đất nước.
- Việc xây lăng Bà Triệu cho thấy nhân dân ta đã thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với Bà.