Nội dung lý thuyết
Trong Bài 17, các em đã được học ba loại tia phóng xạ là tia α, tia β và tia γ. Các loại tia phóng xạ này (còn được gọi là bức xạ ion hoá) đều mang năng lượng và có khả năng ion hoá các nguyên tử. Vì vậy, ngoài những ứng dụng có ích, các tia này có thể gây ra những tác hại lên cơ thể sống.
– Đối với tia α: khả năng đâm xuyên của những hạt α rất yếu nên không thể truyền xuyên qua lớp da để vào cơ thể chúng ta. Do đó, tia α ít gây nguy hại khi nguồn phóng xạ nằm ngoài cơ thể người. Tuy nhiên, với khả năng ion hoá mạnh, những hạt α này lại vô cùng nguy hiểm nếu chất phóng xạ α thâm nhập vào cơ thể khi chúng ta ăn uống, hít thở. Ví dụ: \(_{86}^{222}Rn\) (radon) là một hạt nhân phóng xạ α, tồn tại trong tự nhiên ở dạng khí, có thể thâm nhập và tích tụ trong các toà nhà từ môi trường xung quanh, đặc biệt từ lòng đất (Hình 18.2). Việc hít phải khí radon với nồng độ cao sẽ làm tăng nguy cơ ung thư phổi.

- Đối với tia β: gồm β+ và β- là những hạt mang điện, có khả năng đâm xuyên cao hơn tia α và cũng có khả năng ion hoá nhưng không mạnh bằng tia α. Chùm tia β cường độ lớn có thể gây bỏng. Tác hại của tia β không lớn như tia α nếu nguồn phát các tia này thâm nhập vào cơ thể người.
- Đối với tia γ: không mang điện nhưng có khả năng đâm xuyên rất lớn. Do đó, tia γ có khả năng gây tổn hại nguy hiểm cho tất cả các mô của cơ thể người ngay cả ở những khoảng cách tương đối xa nguồn phóng xạ.
Tác hại của các tia phóng xạ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khả năng thâm nhập của các tia này vào cơ thể, liều lượng chiếu, thời gian phơi nhiễm,... Nói chung, nhiễm phóng xạ có thể gây ra các triệu chứng nhẹ như buồn nôn, mệt mỏi,... cho đến nặng hơn như rụng tóc, tiêu chảy và nguy cơ ung thư, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Từ năm 1974, biển cảnh báo khu vực có phóng xạ hay lưu trữ chất phóng xạ được đề nghị như Hình 18.3. Từ năm 2007, Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế ISO (International Organization for Standardization) kết hợp với IAEA đề nghị thêm biển cảnh báo mới, nhấn mạnh đến mối nguy hại có thể xảy ra và hành động cần có là rời xa khu vực có chứa nguồn phóng xạ như trong Hình 18.4.

Ba yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng lớn đến tác hại của bức xạ gồm: thời gian phơi nhiễm, khoảng cách đến nguồn phóng xạ và che chắn phóng xạ. Chính ba yếu tố này quyết định các quy tắc cơ bản cần thực hiện để đảm bảo an toàn khi ở các khu vực có nguồn phóng xạ hoặc phải làm việc trực tiếp với nguồn phóng xạ:
- Thời gian phơi nhiễm: Ảnh hưởng của bức xạ lên cơ thể sống càng lớn khi thời gian phơi nhiễm với nguồn phóng xạ càng dài. Việc giảm thời gian phơi nhiễm rất quan trọng. Do đó cần bố trí thời lượng công việc phù hợp để giảm thiểu thời gian phơi nhiễm với nguồn phóng xạ.
- Khoảng cách đến nguồn phóng xạ: Sự ảnh hưởng của phóng xạ lên cơ thể chúng ta giảm khi khoảng cách đến nguồn phóng xạ tăng lên. Vì vậy, khi cần thao tác trực tiếp với nguồn phóng xạ, ta cần đảm bảo khoảng cách an toàn bằng việc sử dụng các kẹp dài, các phương tiện điều khiển từ xa hoặc cánh tay robot (Hình 18.5).

- Che chắn phóng xạ: Như đã biết, các tia phóng xạ có thể được chặn lại bằng những vật liệu phù hợp. Do đó, việc che chắn phóng xạ có thể được thực hiện bằng cách trang bị các màn chắn như tường bê tông, cửa chì có độ dày cần thiết, trang phục bảo hộ (mắt kính, găng tay, quần áo bảo hộ có chì) như Hình 18.6.

Bộ Y tế Việt Nam khuyến cáo những người làm việc với các nguồn phóng xạ nên khám sức khoẻ định kì mỗi 3 hoặc 6 tháng để kịp thời phát hiện các biểu hiện bệnh lí do phóng xạ.
Khi phát hiện ô nhiễm phóng xạ, ta cần thông báo ngay với người phụ trách an toàn phóng xạ hoặc chính quyền địa phương. Một quy tắc quan trọng khi xảy ra tình trạng ô nhiễm phóng xạ khẩn cấp là cần theo dõi chặt chẽ tỉnh hình qua các phương tiện truyền thông và tuân thủ các hướng dẫn của chính quyền địa phương.