Nội dung lý thuyết
- Diện tích rừng của nước ta năm 2021 là 14,7 triệu ha, với tỉ lệ che phủ rừng đạt khoảng 42% diện tích tự nhiên.
- Rừng phân bố chủ yếu ở Trung du và miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long.
- Trong rừng có nhiều loại gỗ quý nhiệt đới (lim, sến, táu, gụ, cẩm lai, trắc, nghiến,...) và đặc biệt có nhiều lâm sản ngoài gỗ có giá trị như: dược liệu, các loài cây cho nhựa và tinh dầu,... cùng nhiều loài chim, thú quý.
- Khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa với nền nhiệt độ cao, độ ẩm dồi dào => Thuận lợi cho việc trồng, tái sinh các hệ sinh thái rừng.
- Khoa học – công nghệ gắn với lâm nghiệp như: công nghệ sinh học, các tiến bộ kĩ thuật về thâm canh rừng, quản lí rừng bền vững,... được hoàn thiện, triển khai và áp dụng rộng rãi.
- Hệ thống các chính sách giao đất, giao rừng, trồng và bảo vệ rừng, đóng cửa rừng tự nhiên, thu hút đầu tư xanh cho phát triển lâm nghiệp được Nhà nước ngày càng hoàn thiện, ban hành kịp thời => Góp phần bảo tồn nhiều hệ sinh thái rừng tự nhiên và có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển các ngành dịch vụ từ rừng.
- Người dân có nhiều kinh nghiệm nghề rừng, nhu cầu sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ, dịch vụ sinh thái rừng ngày càng lớn => Là điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay.
- Tuy nhiên, chất lượng rừng còn thấp, biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp,... gây khó khăn cho việc phát triển lâm nghiệp ở nước ta.
Năm 2021, giá trị sản xuất của lâm nghiệp khoảng 63,3 nghìn tỉ đồng, tăng 2,8 lần 50 với năm 2010. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào trồng rừng, bảo vệ rừng ngày càng phổ biến như sử dụng ảnh viễn thám, thiết bị "ay không người lái để theo dõi sự thay đổi về diện tích rừng,... Hoạt động khai thác, chế biển lâm sản đang áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất: công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu mới trong lĩnh vực chế biến và bảo quản lâm sản,....
- Rừng trồng chủ yếu là rừng làm nguyên liệu giấy, rừng gỗ trụ mỏ, rừng thông nhựa và một số loài dược liệu, lâm sản quý (thảo quả, sâm, nấm,...).
- Các vùng có diện tích rừng trồng mới nhiều là: Trung du và miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên.
- Các hoạt động giao khoán rừng, trồng rừng khảo nghiệm, khuyến lâm, phát triển các mô hình du lịch sinh thái, mô hình trồng dược liệu, nấm,... ứng dụng khoa học – công nghệ trong quản lí, chăm sóc rừng được thực hiện rộng rãi, góp phần làm gia tăng diện tích và tạo hệ sinh thái rừng bền vững.
- Sản lượng gỗ khai thác từ rừng (rừng trồng) năm 2021 đạt 18,9 triệu m3 và có xu hướng tăng liên tục qua các năm.
- Sản lượng gỗ rừng trồng tăng => Tạo điều kiện thuận lợi cho gành công nghiệp chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa ở nước ta:
+ Chủ động được cơ bản nguồn nguyên liệu đầu vào.
+ Giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
+ Giảm chi phí sản xuất.
+ Tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm gỗ Việt Nam.
- Các vùng có sản lượng khai thác gỗ lớn là: Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Trung du và miền núi Bắc Bộ.
- Rừng là một tài nguyên quý giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với kinh tế, môi trường cũng như sinh kế của hàng triệu người dân.
- Hiện nay, mặc dù tổng diện tích rừng ở nước ta đang tăng lên đáng kể, nhưng tài nguyên rừng vẫn bị suy thoái về chất lượng rừng chưa thể phục hồi.
=> Do đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo vệ rừng như: Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Lâm nghiệp,... nhằm quản lí, bảo vệ và phát triển rừng một cách bền vững, hiệu quả.
Các nhiệm vụ trọng tâm trong quản lí, bảo vệ rừng hiện nay là:
- Quản lí, bảo vệ chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên hiện có.
- Hạn chế tối đa chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích ngoài lâm nghiệp; hoàn thành giao đất, giao rừng, cho thuê rừng gắn với chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
- Đẩy mạnh gắn kết giữa bảo tồn và phát triển với sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong quản lí rừng.
- Tăng cường năng lực quản trị rừng cho các chủ rừng; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kĩ thuật trong quản lí, giám sát tài nguyên rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng.
- Vùng biển nước ta thuộc vùng biển nhiệt đới => Nguồn lợi hải sản khá phong phú với:
+ Hơn 2 000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế (cá thu, cá ngừ, cá nục, cá cơm,...).
+ Hơn 1 600 loài giáp xác (cua, ghẹ, tôm,...).
+ Khoảng 2 500 loài thân mềm (mực, sò huyết, vẹm xanh, điệp,...).
+ 600 loài rong biển (rong đỏ, rong lục, rong nâu, rong lam,...).
- Vùng biển nước ta rộng lớn, có nhiều ngư trường trọng điểm như:
+ Hải Phòng - Quảng Ninh.
+ Ninh Thuận - Bình Thuận - Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Cà Mau - Kiên Giang.
+ Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa.
- Đường bờ biển dài có nhiều vũng vịnh, đầm phá và cửa sông.
+ Vùng biển có hàng nghìn đảo, nhiều đảo ven bờ => Phát triển nuôi trồng thủy sản.
+ Hệ thống sông suối, kênh rạch, ao hồ, các ô trũng ở vùng đồng bằng => Nuôi thả tôm, cá nước ngọt.
- Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa => Điều kiện thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng có thể diễn ra quanh năm với nhiều loại thủy sản nhiệt đới có giá trị.
- Người lao động có nhiều kinh nghiệm và truyền thống đánh bắt, nuôi trồng thủy sản.
- Phương tiện khai thác, bảo quản ngày càng hiện đại => Tạo điều kiện cho đánh bắt xa bờ.
- Các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản của nước ta ngày càng thuận lợi hơn nhờ hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá (cảng cá, chợ mua, chế biến thủy sản, sửa chữa tàu thuyền, mua bán ngư cụ, thiết bị hàng hải,...) và hoạt động nghiên cứu sản xuất con giống chất lượng cao, chế biến thức ăn được mở rộng.
- Các chính sách quản lí của Nhà nước đối với ngành thủy sản (Luật Thủy sản, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường,...) ngày càng được hoàn thiện và chặt chẽ.
- Việc đa dạng hóa thị trường, tận dụng tốt các lợi thế từ những hiệp định thương mại tự do => Giúp cho thị trường của ngành thủy sản ngày càng mở rộng. Bên cạnh thị trường trong nước và các thị trường truyền thống, các sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã thâm nhập được những thị trường đòi hỏi chất lượng cao như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,...
- Ô nhiễm môi trường nước (đặc biệt là vùng ven bờ).
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm có nhiều biến động
=> Là những trở ngại chính đối với việc phát triển thủy sản ở nước ta hiện nay.
- Giá trị sản xuất ngành thủy sản nước ta liên tục tăng. Năm 2021, giá trị sản xuất của thủy sản chiếm 26,3% giá trị ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
- Tới tốc độ tăng trưởng bình quân là hơn 6%/năm.
- Nuôi trồng thủy sản chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu sản lượng và giá trị sản xuất của ngành thủy sản.
Giá trị sản xuất ngành thủy sản chiếm hơn 26,3% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.
- Sản lượng khai thác thủy sản tăng, hoạt động đánh bắt xa bờ được đẩy mạnh nhờ việc áp dụng các công nghệ hiện đại như: công nghệ dò và định vị cá, định vị hải đồ, pin mặt trời,...
- Các tỉnh, thành phố ven biển đều đẩy mạnh phát triển khai thác hải sản, trong đó Kiên Giang, Cà Mau, Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Ngãi, Bình Định,... là các địa phương có sản lượng khai thác lớn của cả nước.
- Các đối tượng nuôi trồng chủ yếu là: tôm, cá tra, cá ba sa, rong biển,...
- Các mô hình nuôi tuần hoàn, nuôi sinh thái (tôm – rừng, tôm – lúa), nuôi công nghiệp đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với chỉ dẫn địa lí, truy xuất nguồn gốc được áp dụng rộng rãi.
=> Vì vậy, sản lượng và chất lượng sản phẩm nuôi trồng tăng nhanh.
- Tôm và cá nước ngọt được nuôi nhiều ở Đồng Tháp, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang,...