Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
huong luu
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
17 tháng 7 2017 lúc 7:17

a. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Nêu giá trị nhân đạo, hiện thực và nghệ thuật đặc sắc của truyện.

b. Thân bài:

1. Giá trị hiện thực:

- Tố cáo xã hội phong kiến bất công, thối nát ...

   + Chàng Trương đang sống bên gia đình hạnh phúc phải đi lính.

   + Mẹ già nhớ thương, sầu não, lâm bệnh qua đời.

   + Người vợ phải gánh vác công việc gia đình.

- Người phụ nữ là nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công.

   + Vũ Thị Thiết là một người thuỷ chung, yêu thương chồng con, có hiếu với mẹ ...

   + Trương Sinh là người đa nghi, hồ đồ, độc đoán → đẩy Vũ Nương đến cái chết thảm thương.

   + Hiểu ra sự thật Trương Sinh ân hận thì đã muộn.

2. Giá trị nhân đạo

- Đề cao, ca ngợi phẩm hạnh cao quý của người phụ nữ qua hình ảnh Vũ Nương.

   + Đảm đang: Thay chồng gánh vác việc nhà...

   + Hiếu thảo, tôn kính mẹ chồng ...

   + Chung thuỷ: Một lòng, một dạ chờ chồng ...

3. Giá trị nghệ thuật:

- Ngôn ngữ, nhân vật.

- Kịch tính trong truyện bất ngờ.

- Yếu tố hoang đường kỳ ảo.

c. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị nội dung của truyện.

- Truyện là bài học nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc gia đình.

gh
Xem chi tiết
Anh Nguyen Ngoc
12 tháng 5 2021 lúc 7:47

Học rộng, tài cao, nhưng Nguyễn Dữ phải sống trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kì khủng hoảng, nên ông chỉ làm quan một vài năm rồi lui về ở ẩn, viết sách. Tuy không có nhiều tác phẩm lớn đóng góp cho nền văn học trung đại, nhưng Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục, ông thường viết về những người phụ nữ bị xã hội phong kiến chà đạp, đẩy vào hoàn cảnh bất hạnh, Chuyện người con gái Nam Xương là một trong số đó. Vũ Nương, nhân vật chính trong tác phẩm là người phụ nữ nết na, hiền thục, nhưng phải chịu số phận đau thương, oan nghiệt.

 

Vũ Nương luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Sống trong gia đình chồng, nàng phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình, đến mẹ chồng cũng phải khen nàng “xanh kia chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ”. Sống với chồng, nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, không bao giờ có sự thất hòa giữa hai vợ chồng, nên gia đình luôn êm ấm. Khi Trương Sinh phải đi lính, nàng hết sức lo lắng, phút chia tay, nàng nói với chồng rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu,.. chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Vũ Nương chẳng cần vinh hoa phú quý, chỉ khao khát được đoàn tụ, gia đình sum vầy, hạnh phúc mà thôi.

 

 

 

 

Thế nhưng nàng cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình bao nhiêu thì càng phải chịu đau khổ, bất hạnh bấy nhiêu. Thật oan trái! Bi kịch thứ nhất là nàng bị chồng nghi ngờ một cách vô lí mà không được thanh minh. Những lời biện bạch tha thiết “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng… Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói” đều bị chồng để ngoài tai. Những lời van xin thống thiết, hỏi chuyện đó ai nói: “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ”, đều bị chồng gạt phắt đi, anh ta chỉ một mực mắng nhiếc và đánh đuổi nàng đi.

 

Và một bi kịch tiếp tất sẽ xảy ra, dù nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn sự đổ vỡ vẫn không tránh khỏi gia đình tan vỡ như “bình rơi tram gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Nàng than khóc mà nghe đứt ruột “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn…”. Đó là nỗi thất vọng tột cùng của Vũ Nương. Không những thế nàng càng đau lòng vì sự trong sáng bị sỉ nhục, tấm lòng thủy chung bị nghi ngờ, nhân cách cao quý của đời người phụ nữ bị xúc phạm nặng nề, nên nàng chỉ còn tìm đến cái chết được minh oan cho mình. Đó là bi kịch thứ ba của cuộc đời nàng.

 

Cuối cùng, tuy được Linh Phi cứu và được giải oan giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng niềm khao khát hạnh phúc giữa trần gian của Vũ Nương vẫn không thực hiện được. Nàng trở về giữa con sông quê hương, xiêm y lộng lẫy, ngồi trên kiệu hoa nhưng không được trở về ngôi nhà nhỏ bé ấp áp bên chồng con mãi mãi. Đoàn tụ hạnh phúc chỉ là ảo ảnh, chia li tan nát vẫn là hiện thực. Lời nói vĩnh biệt: “thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” thể hiện niềm mong mỏi hạnh phúc không thể thực hiện được vì thế gian đầy bất công này không dành những điều tốt đẹp cho nàng. Hình ảnh Vũ Nương “lúc ẩn, lúc hiện… Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” như ánh sáng đã tàn, gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa tột đỉnh.

 

Cuộc đời Vũ Nương là điển hình cho số phận đau thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến suy tàn. Qua đó, em cảm nhận được nỗi đau thương của thân phận sống lệ thuộc của họ. Những người phụ nữ ấy không bao giờ được quyết định cuộc đời mình. Ở nhà phải phục tùng cha, đi lấy chồng phải phục tùng chồng, chồng chết phải phục tùng con trai trưởng của mình, dù cha, chồng, con trai có quyết định vô lí đến đâu. Họ thường bị ép gả vào những cuộc hôn nhân không bình đẳng, không tình yêu với người chồng gia trưởng, độc đoán. Dù bị chồng hành hạ tàn nhẫn cũng phải cắn răng mà chịu, nếu phản ứng lại sẽ bị coi là lăng loan, bị chồng rẫy bỏ, gia đình chồng mắng nhiếc, bị người đời phỉ nhổ, sỉ nhục đến chết. Vì vậy, họ chỉ có thể chọn một trong hai con đường: đi tu thoát tục hoặc chết một cách thảm khốc. Chế độ gia trưởng của thời phong kiến đã cho người đàn ông cái quyền độc tôn trong gia đình, hại bao cuộc đời người phụ nữ.

 

Nguyễn Dữ viết Chuyện người con gái Nam Xương phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ là góp một bản án về cái chết oan khốc nhằm lên án chế độ phong kiến; đồng thời khơi dậy ở chúng ta niềm cảm thương trước một bi kịch về thân phận người phụ nữ đương thời. Em càng cảm nhận rõ về số phận đau thương vì luôn bị phụ thuộc của họ, vừa cảm phục họ vì như Hồ Xuân Hương đã viết “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Mà em vẫn giữ tấm lòng son” (trích Bánh trôi nước) thì càng căm ghét cái xã hội phong kiến bất công.

Min Gấu
Xem chi tiết
Tuấn Nguyễn
Xem chi tiết
Doraemon
1 tháng 11 2018 lúc 16:24

Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. “Truyền kì mạn lục" chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.

"Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong "Truyền kì mạn lục” ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.

.Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh “có tư dung tốt đẹp”  tính tình “thuỳ mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về "được hai chữ bình yên”.

Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. Cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cãi bóng" từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, "đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và con - những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng...Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương ", toả hương "cỏ Ngu Mĩ”.

Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá”, được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi cứu thoát. Thế nhưng, hạnh phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ “trâm gãy bình rơi". Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương" (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị nhân bản sâu sắc.

Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung Thuỷ cung; Vũ Nương gửi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn tràng trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, vv…

Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm - dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ... Qua đó, ta thấy đằng sau cái vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân dạo.

Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình: treo ấn từ quan, lui về quê nhà "đóng cửa, viết sách”. Ông là nhà văn giàu tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hoá dân tộc.

“Truyền kì mạn lục” là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là thiên cổ kỳ bút". Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. “Chuyện người con gái Nam Xương ” tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ 16, nêu bật thân phận và nỗi đau bất hạnh của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.

Gần 500 năm sau, "Chuyện người con gái Nam Xương” mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Miếu vợ chàng Trương” của vua Lê Thánh Tông:

“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,

Miếu ai như mếu vợ chàng Trương.

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,

Cung nước chi cho lụy đến nàng.

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt

Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng

Qua đây mới biết nguồn cơn ấy

Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."

minh phượng
10 tháng 11 2018 lúc 19:00

Trong tác phẩm Truyền kì mạn lục có thể nói nổi bật nhất là Chuyện người con gái Nam Xương. Câu chuyện không chỉ có giá trị hiện thực mà qua đó còn nói lên số phận người phụ nữ lúc bấy giờ và mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của con người.

Câu chuyện này đã dựa theo một cốt truyện có sẵn trong dân gian. Thế nhưng khi đưa vào tác phẩm, Nguyễn Dữ đã cho thêm rất nhiều chi tiết. Tuy nhiên, nội dung của câu chuyện vẫn không hề thay đổi. Câu chuyện kể về số phận của người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp nhưng lại không được hưởng hạnh phúc. Vũ Nương tuy có tư dung tốt đẹp, thuỳ mị, nết na, xinh đẹp nhưng lại có chồng là Trương Sinh vốn tính hay ghen. Chính vì vậy mà nàng luôn giữ gìn khuôn phép, hết mực với chồng. Khi chồng đi lính, con còn nhỏ, nàng hay chỉ cái bóng mình trên tường vào ban đêm bảo đó là cha nó. Cũng chính vì cái bóng ấy mà Trương Sinh đã nghi nàng có tình riêng, là đồ hư hỏng nên chửi mắng, đuổi nàng đi mà không cho nàng thanh minh. Do vậy, Vũ Nương không hề biết vì sao chồng lại nghi oan mà giải nỗi nghi ngờ. Quá thất vọng và đau khổ, nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch oan tình, minh chứng cho tấm lòng trinh bạch của mình. Mãi sau này, Trương Sinh mới hiểu được nỗi oan của vợ, nhưng lúc đó nàng đã ở dưới thuỷ cung, không về được nữa.

Chuyện người con gái Nam Xương đã nêu lên được hiện thực của xã hội lúc bấy giờ một cách chân thực, ở đầu câu chuyện, ta thấy Trương Sinh đã dùng một trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Điều này cho thấy đây là một cuộc hôn nhân không có tình yêu và không hề có quyền lựa chọn của người con gái lúc bấy giờ. Tuy luôn biết giữ gìn, hiếu hạnh nhưng nàng lại bị chính chồng nghi oan rồi đánh chửi, đuổi đi. Xã hội lúc đó thật bất công, người con trai lại có quyền đánh đập, hành hạ vợ mình không thèm nghe lời thanh minh. Không chỉ thế, câu chuvện còn có ý nghĩa tố cáo chiến tranh. Vì chiến tranh mà gia đình li tán, mẹ xa con, nhớ con mà chết, vợ xa chồng khiến hàng ngày nàng phải chỉ chính cái bóng của mình mà nói với con đó là cha. Không chỉ thế, chiến tranh còn làm cho cuộc sống người dân thêm khổ cực, phải chạy loạn mà chết đuối như Phan Lang. Chính vì thế, chiến tranh cũng phần nào là nguyên nhân khiến cho gia đình Vũ Nương bị li tán dẫn đến cái chết của nàng sau này. Cũng qua câu chuyện, ta thêm hiểu được số phận người phụ nữ lúc bấy giờ, họ phải sống phụ thuộc vào người đàn ông, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Chính vì vậy, tuy bị chồng nghi oan nhưng tứi lúc chết vẫn mang theo trong mình nỗi lo lắng vì chưa làm tròn trách nhiệm của người vợ. Trong đoạn cuối bài, khi gặp Phan Lang ở dưới thuỷ cung, Vũ Nương đã khóc khi nghe Phan kể rằng nhà của nàng bây giờ đã trở nên xơ xác. Trong tâm hồn nàng vẫn mang nặng trọng trách của một người vợ, một người mẹ. Điều này cho ta thấy phẩm hạnh vô cùng đáng quý của người phụ nữ lúc bấy giờ mà đại diện là nhân vật Vũ Nương. Trong câu chuyện, tác giả còn nói lên ước mơ của người dân lúc bấy giờ. Họ luôn mong muốn về một thế giới mới hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn và con người luôn sống chan hoà với nhau. Vì thế mà sau khi Vũ Nương gieo mình xuống sông, nàng đã được các nàng tiên cứu giúp rồi sau dó cũng trở thành tiên. Người đàn dã cho một người tốt như Vũ Nương có thể gặp một cuộc sống tốt đẹp hơn khi ở một thế giới khác. Việc tác giả đưa yếu tố kì ảo vào trong tác phẩm cũng nhằm thể hiện được ước mơ của người dân trong thời đại lúc bấy giờ.

Câu chuyện về người con gái Nam Xương đã nêu lên được số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những luật lệ không công bằng, trọng nam khinh nữ đã đẩy người phụ nữ phải vào con đường cùng dẫn đến cái chết oan uổng, bất công. Câu chuyện đã tố cáo chế độ phong kiến hà khắc, chiến tranh phi nghĩa và đã nói lên mong ước của người dân lúc bấy giờ. Đồng thời qua câu chuyện này, nó cũng khiến cho ta phải suy nghĩ thêm về số phận của những người phụ nữ xưa cũng như cuộc đời họ sẽ trôi tới đâu?

minh phượng
10 tháng 11 2018 lúc 19:02

Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.

Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái huyện Nam Xương nết na, thuỳ mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có, nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh trở về thì mẹ đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất Định không chịu nhận chàng là bố vì bố nó "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi". Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống thuỷ chung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải oan nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn. 

Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Và chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, vì chồng nàng quá tin lời con trẻ, nghĩ oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiên nàng phải tìm cái chết trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thuỷ cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng, nàng cũng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi, đánh phải sống ở cõi chết: "Đa tạ tình chàng, thiếp chàng thể trở về nhân gian được nữa". 

Chi tiết mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ phủ định của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với "nhân gian", đối với xã hội phong kiến thối nát vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, Chuyện người con gái Nam Xương còn đề cao phẩm chất giá trị của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên chồng, nàng "giữ gìn khuôn phép", không lúc nào để vợ chồng thất hoà. Lúc chồng đi lính, một mình nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.

Còn đối với chồng, nàng một dạ thuỷ chung. Sa khi chết, được sống ở thuỷ cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động "ứa nước mắt khóc". Nàng giãi bày tâm sự :"Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày". Đọc đến đây, không ai không xúc động được trước tấm lòng nặng nghĩa nặng tình với quê hương bản quán của nàng. Tuy vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường cũng như khi làm tiên ở thuỷ cung lộng lẫy đều là một người phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng. 

Như phần trên đã nói, viết Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện giá dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được hình tượng nhân vật vô cùng sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc con người.

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
13 tháng 3 2019 lúc 4:26

a. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Vẻ đẹp, đức hạnh và số phận của Vũ Nương.

b. Thân bài:

- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp.

- Phẩm hạnh của Vũ Nương:

   + Thuỷ chung, yêu thương chồng (khi xa chồng ...)

   + Mẹ hiền (một mình nuôi con nhỏ ...)

   + Dâu thảo (tận tình chăm sóc mẹ già lúc yếu đau, lo thuốc thang ...)

- Những nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương.

   + Cuộc hôn nhân bất bình đẳng.

   + Tính cách và cách cư xử hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh.

   + Tình huống bất ngờ (lời của đứa trẻ thơ ...)

- Kết cục của bi kịch là cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.

- Ý nghĩa của bi kịch: Tố cáo xã hội phong kiến.

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm.

c. Kết bài:

- Khẳng định lại phẩm chất, vẻ đẹp của Vũ Nương.

- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Nam Khánh 2k
Xem chi tiết
người lạ
30 tháng 10 2023 lúc 21:07

Sơ đồ tư duy Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương

Bich Tran Thi
8 tháng 11 2023 lúc 21:41

Từ xa xưa, người phụ nữ đã bị coi là yếu đuối, nhu nhược, lệ thuộc, không làm được việc gì có ích, bị coi thường khinh bỉ và phải lệ thuộc vào quyền lực của đàn ông. Nhưng chính điều này vẫn luôn là đề tài phổ biến gây cảm hứng cho các nhà văn trong văn học trung đại Việt Nam. Và Vũ Nương – người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến, có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp phải những bất công, có cuộc đời bất hạnh – được tác giả Nguyễn Dữ thể hiện thành công trong “Chuyện người con gái Nam Xương”

Thứ nhất, Vũ Nương là một người phụ nữ người gắn kết nhiều nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của cô được phản ánh trong nhiều mối quan hệ của con người trong các tình huống khác nhau. Thuở nhỏ, Vũ Nương tính tình hiền lành, có lối suy nghĩ tốt nên được mọi người yêu mến. Sau khi gả vào nhà họ Trương, cô là người vợ thủy chung, hết lòng chăm lo cho gia đình nhỏ của mình. Biết chồng hay nghi ngờ, cô luôn tuân theo phép xã giao, không để xảy ra bất đồng. Ngày tiễn chồng lên đường đi biên ải, Vũ Nương như xé lòng, dành cho chồng lời khuyên đầy yêu thương: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Qua lời khuyên của nàng ta thấy được Vũ Nương không mong vinh hoa phú quý mà chỉ mong chồng bình an ra trận và bình an trở về, nàng cũng đồng cảm với những vất vả chồng phải chịu trong thời gian dài.

Vũ Nương bao năm xa chồng khôn nguôi nỗi nhớ nhung, một lòng chờ đợi chồng về: ” Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, năm này qua năm khác, nỗi nhớ chồng không bao giờ nguôi ngoai, cứ thế kéo dài theo năm tháng: ” Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”

So với phận làm dâu, Vũ Nương là một người mẹ rất chu đáo và chiều con. Mẹ chồng ốm nặng, nàng chăm sóc bà rất chu đáo , cho mẹ uống thuốc, lễ Phật, dùng những lý lẽ nhẹ nhàng, ngọt ngào để động viên mẹ mau chóng khỏi bệnh. Nhân cách, công đức của Nương khiến mẹ chồng nàng phải nói với nàng:” Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi mẹ chồng mất, một mình nàng lo ma chay, cúng tế như cha mẹ ruột. Khó có thể tìm thấy tấm gương siêng năng, hiếu thảo này ở bất kỳ ai có hoàn cảnh éo le nào như nàng .

Đối với con, Vũ Nương là một người mẹ hiền, hết lòng yêu thương con, một mình nuôi con bằng tất cả tình yêu thương mà mình tích cóp được và nỗi sợ hãi thiếu thốn tình thương của cha nơi chiến trường. lạnh lẽo Buổi tối, khi đứa trẻ khóc, anh dỗ dành bằng cách chỉ vào bóng của mình trên tường và nói rằng đó là cha của nó.

Vũ Nương còn là người coi trọng danh dự, nhân phẩm. Điều này có thể thấy trong hoàn cảnh bị nghi oan, Vũ Nương đã cố gắng cải thiện hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ bằng cách hết mình thanh minh, giải thích. Hình ảnh nàng đi dọc sông Hoàng Giang đã khẳng định tấm lòng chung thủy, trong sáng của nàng . Sau khi về với tiên và được sống yên bình ở thế giới khác, Vũ Nương không khỏi bồi hồi nhớ thương chốn trần gian, chồng con, quê hương tổ tông và niềm mong được giải thoát.

Vũ Nương là một người phụ nữ thật xinh đẹp, tháo vát, đảm đang, thương con, thủy chung, hết lòng vun vén hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp của nàng như vầng hào quang tỏa sáng dù đã về nơi chín suối. Biết bao kính trọng và ngưỡng mộ!

Một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp như Vũ Nương lẽ ra phải được hạnh phúc nhưng nàng lại gặp phải số phận cay đắng đầy bất công và cuộc đời của nàng thật bất hạnh. Thứ nhất, Vũ Nương là nạn nhân của hệ tư tưởng phong kiến, hôn nhân được mua bằng tiền chứ không phải tình yêu. Mặt khác, cuộc hôn nhân giữa nàng và Trương Sinh có phần không bình đẳng bởi Vũ Nương là: ” con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Trương Sinh xin mẹ một trăm lạng vàng để cưới nàng . Khoảng cách giàu nghèo đã tạo nên địa vị lớn hơn cho Trương Sinh – một người đàn ông gia trưởng xuất thân từ một gia đình giàu có trong xã hội phong kiến ​​- để hắn dễ dàng chà đạp lên thân phận của Vũ Nương.

Vũ Nương, trở thành nạn nhân của chiến tranh phong kiến ​​một cách vô nghĩa. Gia đình đang yên ấm hạnh phúc thì phải ” chia phôi vì động việc lửa binh”. Những ngày ở nhà, Vũ Nương mòn mỏi đợi chồng, khắc khoải nhớ nhung, như thể một người vợ hoài cổ. Ngày gặp nhau là ngày” bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao liễu tàn trước gió”. Nghi ngờ và thêm vào lời nói của bọn trẻ, anh phớt lờ lời giải thích của cô và những người hàng xóm bênh nàng. Vì vậy, Trương Sinh không ngừng mắng nhiếc, chửi bới, rượt đuổi và đẩy chàng vào cái chết đau đớn. Vì vậy, cảm thấy tiếc cho anh ta! Chỉ vì lời nói của một đứa trẻ, chỉ vì một người chồng ghen tuông, gợi tình mà phải tự kết liễu đời mình.

Tóm lại, nhân vật Vũ Nương của Nguyễn Dữ trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là một hình tượng phụ nữ tiêu biểu trong xã hội xưa, đồng thời cũng là nhân vật lên án xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ thời cận đại. cũ Từ đó cảm thương cho số phận của nhà văn tài hoa Nguyễn Du Vũ Nương.

xuân quỳnh
18 tháng 8 lúc 21:41

Vũ Nương, nhân vật chính trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Cuộc đời và số phận của Vũ Nương gợi lên nhiều cảm xúc sâu sắc và mang đến bài học ý nghĩa về tình người và sự bất công trong xã hội xưa.

1. Phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương:

Vũ Nương là người vợ hiền, người mẹ hiền, và là một con dâu đảm đang. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã khắc họa Vũ Nương là người phụ nữ "thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Cô sống trong một gia đình bình thường, nhưng luôn thể hiện sự tôn kính với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng, và yêu thương con cái. Khi chồng là Trương Sinh phải ra trận, Vũ Nương đã giữ gìn gia đình, chăm sóc con cái, và hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng, thể hiện sự kiên nhẫn và đức hạnh của mình.

2. Bi kịch của Vũ Nương:

Dù sống tốt đẹp, nhưng Vũ Nương lại phải chịu một bi kịch đau đớn xuất phát từ lòng nghi ngờ vô căn cứ của chồng. Khi Trương Sinh trở về, nghe con nhỏ nói rằng "đêm nào cũng có một người đàn ông đến" (thực ra chỉ là cái bóng của Vũ Nương trên tường), Trương Sinh không hiểu rõ sự việc và đã tức giận mà không cho Vũ Nương cơ hội giải thích. Bi kịch xảy ra khi Vũ Nương, không chịu nổi sự oan ức và nỗi đau tinh thần, đã nhảy xuống sông tự tử để chứng minh sự trong sạch của mình.

3. Hình tượng người phụ nữ trong xã hội phong kiến:

Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ bị đẩy vào cảnh oan khuất, bất hạnh trong xã hội phong kiến. Cô là nạn nhân của một xã hội mà quyền lực nằm trong tay đàn ông, và nơi mà lòng tin yêu có thể bị phá hủy bởi những nghi kỵ không căn cứ. Số phận của Vũ Nương thể hiện sự bất lực của phụ nữ trước những thế lực xã hội, và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ những bất công mà họ phải chịu đựng.

4. Ý nghĩa của câu chuyện:

Câu chuyện về Vũ Nương không chỉ là một bi kịch gia đình mà còn là lời nhắc nhở về tầm quan trọng của niềm tin, sự hiểu biết, và lòng bao dung trong cuộc sống. Tác phẩm gửi gắm thông điệp về sự đồng cảm và cảnh tỉnh những định kiến và áp lực xã hội đã đẩy người phụ nữ vào những cảnh ngộ bi thảm.

Tóm lại, nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn và những bi kịch của người phụ nữ Việt Nam thời xưa, đồng thời cũng là một lời kêu gọi về sự thay đổi trong cách nhìn nhận và đối xử với họ trong xã hội.

Min Gấu
Xem chi tiết
Đan Khánh
29 tháng 10 2021 lúc 8:33

Tham khảo:

Vũ Nương là người con gái đức hạnh, mẫu mực nên nàng luôn biết gìn giữ hạnh phúc gia đình. Tuy chồng xa nhà đầu quân đi lính nhưng nàng luôn làm tròn bổn phận dâu con. Trở thành trụ cột của cả nhà, bàn tay nàng một mình nuôi bé Đản lớn khôn, chăm sóc mẹ chồng tới nơi tới chốn. Với đứa con nàng dành hết tình yêu cho nó và hành động chỉ bóng mình trên vách bảo cha Đản cũng vì nàng muốn dỗ dành con khỏi khóc. Với mẹ chồng, vì mong mỏi nhớ thương con trai nên không may bà đã lâm bệnh. Có thể nói đây là cơ hội để chứng tỏ và thể hiện phẩm chất đáng quý trong con người Vũ Nương. Nàng đã luôn lo lắng thuốc thang, tận tình, chu đáo mong mẹ sớm khỏi bệnh. Những lời nói an ủi, động viên mẹ cũng đều xuất phát trong sâu trái tim đứa con dâu. Đến lúc bà qua đời, nàng đau xót vô cùng, lo ma chay tế lễ như cha mẹ đẻ mình vậy. Và sự ngoan ngoãn, nết na của nàng cũng dược ngợi ca qua lời mẹ dặn trước khi lâm chung: Xanh kia quyết chẳng phụ con.... Từ đây cho thấy ranh giới mẹ chồng nàng dâu đã không còn tồn tại trong gia đình nàng. Như vậy Vũ Nương thật sự xứng đáng là người mẹ hiền, dâu hiếu thảo.

Hoàng phan
Xem chi tiết
minh nguyet
25 tháng 1 2022 lúc 21:57

Em tham khảo:

Trong tác phẩm "chuyện người con gái Nam Xương" của tác giả Nguyễn Dữ là một chi tiết đặc sắc, giàu ý nghĩ. Câu chuyện nói đến có chi tiết thắt nút, đêm nào Vũ Nương cũng chỉ cái bóng mình trên vách đá và nói rằng đó là cha Đản, để dỗ dành bé khi thiếu tình yêu của người cha. Trương Sinh trở về, chỉ do lời nói ngây thơ một đứa bé mà đã dẫn đến cái chết của Vũ Nương, đã trở thành sợi dây vô tình, oan nghiệt thắt chặt cuộc đời của nàng. Chi tiết cái bóng không chỉ thắt nút ma còn là một chi tiết mở nút, vào một đêm bé Đản lại chỉ vào cái bóng của Trương Sinh , khi đó chàng mới nhận ra nỗi oan của vợ mình nhũng đã quá muộn. Chi tiết cái bóng còn là phản ảnh xã hội phong kiến và chế độ Nam Quyền là không phải nơi tốt đẹp cho những người như Vũ Nương được sống. Chi tiết cái bóng còn góp phần làm nên thành công trong việc xây dựng tình huống truyện trong việc bộc lộ nội dung chủ đề của tác phẩm.