Em hãy chuyển các câu thơ tả cảnh mùa thu trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thành một đoạn văn miêu tả (khoảng 8-10 dòng).
Câu 6 (trang 50, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Em hãy chuyển các câu thơ tả cảnh mùa thu trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thành một đoạn văn miêu tả (khoảng 8-10 dòng).
Bài thơ để lại cho em cảm xúc buồn, đồng cảm, xót thương cho thận phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đồng thời cho ta thấy tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và cuộc sống, số phận cay đắng của họ, dù gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch của cuộc đời. Bài thơ cũng cho ta thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, những điều tưởng trừng vô cùng giản đơn, bình dị nhưng lại là khao khát, niềm mơ ước cả cuộc đời của tác giả nói chung, của tất cả người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Qua đó ta thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội phong kiến xưa kia, trọng nam khinh nữ với những hủ tục lạc hậu. Nhưng Hồ Xuân Hương đã đưa hình ảnh những người phụ nữ lên một tầng cao mới, họ không chi là những người thấp cổ bé họng, bị chà đạp, khinh rẻ mà họ đã trở nên mạnh mẽ, dám chống lại cái xã hội phong kiến, đạp tung mọi lễ giáo kìm hãm những người phụ nữ.
Cảnh mùa thu được Nguyễn Khuyến miêu tả trong bài Thu điếu là vùng nào?
A. Đồng bằng Trung Bộ
B. Đồng bằng Bắc Bộ
C. Đồng bằng Nam Bộ
D. Đồng bằng sông Cửu Long
Thu điếu viết về cảnh sắc mùa thu ở Đồng bằng Bắc Bộ.
Đáp án cần chọn là: B
Viết 1 đoạn văn về cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến
Tham khảo:
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp không nhỏ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc sắc nằm trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo”
Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam bước vào trang thơ Nguyễn Khuyến thật chân thực. Mở ra trước mắt người đọc là cái ao mùa thu vùng chiêm trũng đất Bắc. Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “ao thu” ấy, trong veo chỉ sự trong vắt, trong đến mức mà người ta có thể nhìn xuống tận đáy hồ. Có lẽ, thời điểm này không còn là thời điểm chớm thu nữa mà là thời điểm giữa mùa thu hoặc cuối thu nên mới “lạnh lẽo” đến thế, chứ không se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ gợi ra một khung cảnh với ao thu trong veo, trong vắt, tĩnh lặng nhưng lại lạnh lẽo, quạnh hiu. Giữa khung cảnh của một ao thu rộng và lạnh lẽo ấy lại xuất hiện thêm một chiếc thuyền nhỏ, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo. Giữa cái rộng của ao thu đối lập với chiếc thuyền câu đã bé lại còn “bé tẹo teo” khiến cho hình ảnh chiếc thuyền trở nên nhỏ bé hơn, cô đơn hơn. Hai câu thơ mở đầu đều được nhà thơ gieo vần “eo” khiến không gian câu cá mùa thu trở nên lạnh lẽo mang một chút buồn.
Nếu như hai câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu thật tĩnh lặng, thì ở những câu thơ tiếp theo, cảnh sắc mùa thu lần lượt hiện lên sống động hơn:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Câu thơ bắt đầu xuất hiện sự chuyển động của vạn vật mùa thu, dù sự lay động ấy chỉ nhẹ nhàng, khe khẽ. Người thi sĩ vẽ lên những hình ảnh “sóng biếc” chỉ “hơi gợn tí” còn “lá vàng” cũng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự chuyển động rất nhẹ nhàng trong cảnh sắc mùa thu. Hẳn là thi nhân Nguyễn Khuyến phải tinh tế lắm mới nhận ra sự khe khẽ đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi cho người đọc một màu xanh biếc trên mặt ao trong, một màu xanh rất đẹp mắt và có sắc thái biểu cảm. Không chỉ có sóng biếc mà “lá vàng” cũng được đưa vào thơ Nguyễn Khuyến một cách tinh tế. Người ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng xuống. Bởi thế mà lá vàng đã từng bước vào rất nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Nhà thơ tiếp tục miên man tả cảnh sắc mùa thu êm đềm khi hướng tầm mắt ra xa hơn với bầu trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một bầu trời mùa thu cao vời vợi. Bởi lẽ một bầu trời cao trong vời vợi mới có một màu xanh ngắt. Nếu bên dưới ao thu được điểm tô là màu “biếc” của sóng thu, màu vàng của “lá” thu, thì ở ý thơ này lại là một màu “xanh ngắt” bao la, ngút ngàn. Và trên bầu trời thu ấy là những “tầng mây” đang “lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả trạng thái dùng dằng, có trôi nhưng lại rất khẽ, rất thờ ơ của những đám mây. Dường như mùa thu cả không gian đất trời, cảnh sắc đều như trôi chậm lại. Nhà thơ trở lại với cảnh vật bên dưới, phía xa xa của những con ngõ nhỏ. Hình ảnh “ngõ trúc” hiện lên thật hoang vắng. Từ láy “quanh co” cùng “vắng teo” thể hiện một con ngõ ngoằn nghoèo, quanh co và không một bóng khách, gợi sự cô đơn, heo hút, man mác buồn.
Câu 1. Qua bài Thu điếu, em có cảm nhận như thế nào về tấm lòng tác giả đối với thiên nhiên và đất nước (viết bàng một đoạn văn khoảng 200 chữ)?.
Câu 2. Nghệ thuật được Nguyễn khuyến sử dụng thành công nhất trong bài thơ Thu điếu là gì? Hãy chỉ ra cụ thể trong bài thơ.
GIÚP MK VS Ạ.
Em tham khảo nhé:
Câu 1:
Bài thơ gợi tình yêu và sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nếu không xuất phát từ tình yêu quê hương tha thiết thì không thể vẽ lên một bức tranh thu đẹp, rất đặc trưng và có hồn như thế.
Cảnh thu rất đẹp nhưng buồn phảng phất. Đó chính là nét buồn lan ra từ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không gian tĩnh lặng trong bài thơ góp phần thể hiện sự vắng lặng trong cõi lòng nhà thơ. Đó cũng chính là cái tính rất gợi cảm, tác động tới tâm hồn nhà thơ: một tâm trạng cô quạnh, đau xót trước tình hình đất nước bị xâm lược. Bài thơ không chỉ đơn thuần là tả việc câu cá. Câu cá chỉ là cái cớ để nhà thơ mở rộng cõi lòng mình đón nhận cảnh thu, tình thu. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được một tấm lòng thiết tha gắn bó với thiên nhiên, đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín mà vẫn không kém phần sâu sắc
Câu 2:
Bài thơ thất ngôn bát cú với cách gieo vần độc đáo vần "eo" đi vào thơ của Nguyễn Khuyến rất tự nhiên, thoải mái chứ không hề bị gò bó, ép buộc hay khiên cưỡng để lại ấn tượng khó quên cho người đọc
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại: chỉ bằng vài nét vẽ tinh tế, mùa thu của thiên nhiên đất trời vùng Bắc Bộ đã hiện lên thật đẹp. Đó cũng là cách để Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu của mình với quê hương, đất nước.
Nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến.
Nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Câu cá mùa thu
- Bài thơ gợi tình yêu và sự gắn bó sâu sắc và thiên nhiên vùng đồng bằng Bắc Bộ
+ Cảnh thu đẹp nhưng phảng phất nỗi buồn từ tâm trạng nhân vật trữ tình
+ Tư thế của người đi câu cá chứa đựng những u uẩn truyền miên
+ Cái tình của Nguyễn Khuyến đối với đất nước, đối với non sông sâu sắc
+ Tâm sự, nỗi lòng của Nguyễn Khuyến dành cho đất nước thầm ặng, da diết, đậm chất suy tư
- Ngôn từ: giản dị, trong sáng đến mức kì lạ, có khả năng biểu đạt xuất sắc tinh tế cảnh vật, những uẩn khúc thầm kín khó giãi bày tâm sự
- Bài thơ cũng thành công với cách gieo vần: vần “eo” khó luyến láy, khó sử dụng nhưng được Nguyễn Khuyến sử dụng một cách tài tình: diễn tả không gian nhọn, cảm giác về một không gian thu hẹp dần và khép kín lại, hài hòa
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy cái động để gây ấn tượng sâu đậm về cái yên ắng, tĩnh lặng của tâm trạng
⇒ Bức tranh mùa thu nhẹ nhàng, tươi đẹp nhưng chan chứa tâm trạng, tình cảm
Từ những đặc sắc của cách gieo vần "eo" trong bài thơ Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến), hãy liên hệ với những tác phẩm văn học khác có cùng chủ đề miêu tả mùa thu hoặc có nghệ thuật gieo vần đặc sắc.
Viên xúc xắc mùa thu – Hoàng Nhuận Cầm
Gió đầu ô – Chu Hoạch
Cây bàng cuối thu – Nguyễn Bính
Thu rừng – Huy Cận
Cảm thu tiễn thu – Tản Đà
Cuối thu – Hàn Mặc Tử
Đây mùa thu tới – Xuân Diệu
em chỉ biết từng đó thôi
Viên xúc xắc mùa thu – Hoàng Nhuận Cầm
Tình yêu đến trong đời không báo động
Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ
Viên xúc xắc mùa thu ru trong cỏ
Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giăng
Anh đi qua những thành phố bọc vàng
Những thị trấn mẹ ôm con trên cỏ
Qua ánh nắng bẩy mầu, qua ngọn đèn hạt đỗ
Qua bao cuộc đời tan vỡ lại hồi sinh.
Anh đi qua những đôi mắt lặng thinh
Những đôi mắt nhìn anh như họng súng
Anh đi qua tổ chim non mới dựng
Qua tro tàn thành quách mấy triệu năm
Anh đi qua tất cả mối tình câm
Mối tình nói rồi mối tình bỏ dở
Đôi tay kẻ ăn xin, đôi môi hồng trẻ nhỏ
Đất nước đau buồn chưa hết Mỵ Châu ơi!
Lông ngỗng bay như số phận giữa trời
Trọng Thuỷ đứng suốt đời không hết lạ
Vệt lông ngỗng con đường tình trắng xoá
Có ai hay thăm thẳm giếng không cùng.
Nhưng chính anh không hay số phận lại điệp trùng
Khi mở mắt Mỵ Châu em ngồi đó
Toa thứ ba ôm cặp ai nức nở
Suốt đời anh mang tội với con tàu.
Sẽ tan đi những thành phố bẩy màu
Đôi trái cấm trong vườn đời em, anh làm vỡ
Nhưng giọt mực thứ ba em ơi không thể lỡ
Xin trải lòng ta đón chấm xanh rơi.
Giọt mực em thong thả đến trong đời
Không giấu được trong lòng tay nhỏ bé
Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé
Sáu mặt đời lắc cắc tiếng thơ anh.
Gió đầu ô – Chu Hoạch
Gió đầu ô vào mùa chớm lạnh
Mạnh hơn và có lẽ sạch hơn
Hè bạc nắng rõ đường viền ô gạch
Giấc đầu hè che ngực tấm chăn đơn
Cả trời nữa cũng chuyển vần vân sắc
Tán Bàng xanh đỏ rám tới từng gân
Cũng chẳng thiếu những cành khô ngúc ngắc
Đã chả buồn giấu mặt giữa không gian
Thu có vẻ như cời than đốt lửa
Ta lại buồn như sắp sửa vào yêu
Để hối tiếc khi tuổi già đập cửa
Ta đổi Buồn
Vui lấy được bao nhiêu?
Và cứ thế đứng chiều mong chóng tối
Tối mong đêm sấp gối lại mong ngày
Ôi chán nghẹn những mùa mưa cũ mới
Cứ bảo Trời không khóc mướn thương vay?
Ta lại buồn như sắp sửa vào say
Biết chạm cốc cùng ai trong ý nghĩ
Biết tìm mắt của ai màu tri kỉ
Mà cần chi khi chẳng thể khuây buồn
Chưa biết chừng có lẽ lại buồn hơn…
Ai bảo kiếp ôm chân thần Vệ nữ
Là nhẹ quên trăm vạn thứ trò đời?
Ta – chỉ thấy lúc tan cơn cuồng dữ
Tất trở về như mọi kiếp buông trôi…
Ai bảo chót mang đời đi lang thang
Là thư thái như một chàng nghệ sĩ?
Ôi, dối trá mà sao không biết sỉ
Hỡi anh chàng ra vẻ phớt buồn đau…
Ta muốn yêu như kiểu những con tàu
Vẫn khao khát giàu thêm màu viễn xứ
Như cái thưở hồng hoang thời dã thú
Tổ tiên loài Người vốn sợ cô đơn…
Có ai nghe cho hết một nỗi buồn
Ta sẽ đến cầu hôn
và có lẽ
Ta sẽ chết trên bàn tay gượng nhẹ
Nỗi buồn ta nhờ thế sẽ tan mau
Có ai cười cho đến trọn ngày đâu
Bởi đau khổ vẫn ẩn rình đây đó
Có ai nghe và phải chăng sẽ có
Một tình yêu không dự cảnh trao tay?
Ta muốn buồn cho hết mức rồi say
Vô cùng tận và lăn quay xác thịt
Cho đến tối khi đầu ô gió mệt
Nhờ mưa lau dấu vết đêm qua …
Mẹ ơi!
Mẹ ở lại nhà
Con bất hiếu con ra đi từ sớm
Mẹ nhớ bữa phần cơm con ủ ấm
Ngoài kia lạnh lắm
Gió đầu ô…
Cây bàng cuối thu – Nguyễn Bính
Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi, chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh hiu như tấm thân này
Lại âm thầm sống những ngày gió mưa…
Thu rừng – Huy Cận
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u.
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe;
Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút song song.
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.
Non xanh ngây cả buồn chiều,
– Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Tiếng thu – Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Cảm thu tiễn thu – Tản Đà
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?
Nào những ai
Bảy thước thân nam tử
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bổng cánh hồng
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my
Nào những ai
Sinh trưởng nơi khuê các
Khuya sớm phận nữ nhi
Song the ngày tháng thoi đi
Vương tơ ngắm rện nhỡ thì thương hoa
Nào những ai
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha
Ruột tầm héo, tóc sương pha
Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn
Nào những ai
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn
Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Nào những ai
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ huê ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi
Nào những ai
Dọc ngang giời rộng
Vùng vẫy bể khơi
Đội giời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân
Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Thôi nghĩ cho
Thu tự giời
Cảm tự người
Người đời ai cảm ta không biết
Ta cảm thay ai, viết mấy lời
Thôi thời
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui
Chi để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai!
Cuối thu – Hàn Mặc Tử
Lụa trời ai dệt với ai căng,
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.
Mây vẽ hằng hà sa số lệ,
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
Sao không tô điểm nên sương khói,
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn.
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ,
Với buồn phơn phớt, vắng trơ vơ.
Cây gì mảnh khảnh run cầm cập,
Điềm báo thu vàng gầy xác xơ.
Thu héo nấc thành những tiếng khô.
Một vì sao lạ mọc phương mô?
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ?
Đây mùa thu tới – Xuân Diệu
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Phân tích bài thơ ca Thu điếu của tác giả Nguyễn khuyển Hãy ghi lại vài câu thơ cũng viết về đề tài trợ mùa thu mà em biết. Chỉ ra điểm giống và khác nhau của khung cảnh mày thu trong những cây trên với mùa thu trong bài thơi thu điếu
Viết đoạn văn khoảng 7-10 dòng về thiên nhiên mùa xuân xứ Huế được miêu tả qua 4 câu thơ đầu bài thơ mùa xuân nho nhỏ ?
Tham khảo:
Thơ :
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chim mà vang trời”
Phân tích:
Dòng sông có màu xanh gợi nhắc một hình ảnh của những khúc sông uốn lượn quanh co của dải đất miền Trung. Trên gam màu xanh lơ nổi bật lên hình ảnh một bông hoa tím biếc, không có màu vàng của hoa mai hay là màu đỏ của hoa đào mà chỉ có một bông hoa màu tím hiện lên trước mắt. Cho thấy hình ảnh mang đậm bản sắc của xứ Huế, màu tím là màu đặc trưng của con người và đất trời Huế. Nhà thơ đã rất khéo léo khi dùng nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên ở phía đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tràn đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân của đất trời. Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Một bức tranh đang suy tư bỗng đâu đó vang lên một tiếng chim hót làm sinh động hẳn lên, một con chim chiền chiện mà lại hót được vang cả trời, thực ra khoảng trời ấy chính là khoảng không gian riêng của tác giả, chính vì vậy mà chỉ có tác giả mới cảm nhận được điều đó mà thôi.
Mùa xuân luôn là đề tài phong phú cho các thi nhân thử bút. Đã có không ít bài thơ hay viết về mùa xuân. Nhà thơ Thanh Hải cũng khá thành công khi viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để nói lên ước nguyện khiêm tốn của mình, ước nguyện được dâng hiến mùa xuân bé nhỏ của mình vào mùa xuân chung của dân tộc, vào xuân bất tận của đất trời.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4-11-1930, ở Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động cách mạng từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hải là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời (1980). Bài thơ thể hiện cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với đất nước, với con người Việt Nam trong thời kì cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mở đầu bài thơ, Thanh Hải dựng lên khung cảnh của một mùa xuân
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
ơi, con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Không gian mùa xuân hiện lên trước hết từ một dòng sông xanh với một bông hoa tím biếc. Đây là những hình ảnh vốn rất riêng của quê nương xứ Huế – quê hương yêu dấu của tác giả. Sự hòa hợp giữa màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa đã tạo nên một cảm giác mát dịu. Khung cảnh mùa xuân còn gợi lên những âm thanh quen thuộc, vui tươi của con chim chiền chiện, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, như một dấu hiệu của mùa xuân. Tiếng hót của con chim chiền chiện vang trời đã làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức lạ thường. Tiếng chim chiền chiện đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa. Từng giọt long lanh rơi – Tôi đưa tay tôi hứng” là một hình thức chuyển đổi cảm giác. Âm thanh vốn chỉ nghe thấy, nhưng được chuyển đổi nên có thể cảm nhận, nhìn thấy và có thể tiếp xúc dược. Ngay trong đoạn mở đầu, chúng ta đã hình dung được tâm trạng say mê, đầy hào hứng của nhà thơ trước mùa xuân mới của đất trời.
Bài thơ được viết khi cả nước đang trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí chung đó, không thể thiếu hình ảnh của những người đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc và những người làm ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy bên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Những người đang ngày đêm cầm súng bảo vệ tổ quốc và những người góp phần xây dựng quê hương đã được tác giả nhắc đến đầu tiên trong bài thơ. Đó là những người đã chịu nhiều hi sinh trong kháng chiến cũng như trong thời bình. Mùa xuân hiện hữu trong tất cả các hoạt động, mùa xuân theo người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân theo người nông dân ra đồng. Mùa xuân không còn là khái niệm thời gian mà đã trở thành người bạn của những người ngày đêm làm giàu và mang lại bình yên cho dân tộc. Xuân trong thơ Thanh Hải gần như đã có hồn và dường như thật hối hả trong nhịp sống chung của dân tộc. Nhắc đến hình ảnh người lính, tác giả không quên lịch sử hào hùng của dân tộc
Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước.
Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc, Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế.
Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều ý nghĩa. Mùa xuân với khái niệm thời gian đã được tác giả chuyển thành khái niệm của một sự vật nhất định. Chủ đề của bài thơ bộc lộ rõ qua đoạn thơ:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập trong hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Đến đây cái tôi đã được thay bằng cái ta và cảnh vật của thiên nhiên trong mắt quan sát của nhà thơ đều được thu nhỏ lại trong cái ta ấy. Mỗi một bông hoa, mỗi một tiếng chim, mỗi cảnh vật thiên nhiên đều góp phần tạo nên mùa xuân chung của đất nước. Và ta là tác giả cũng là một con người cụ thể, ta hãy như con chim chiền chiện, như bông hoa tím biếc trên dòng sông xanh, như một nốt trầm trong bản hòa ca xao xuyến của dân tộc. Cái ta chỉ khiêm tốn giữ vị trí của nốt trầm trong bản nhạc. Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ, công hiến sức lực và cuộc đời của mình để làm nên mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.
Khổ thơ cuối cùng là lời tâm tình của tác giả, lời của một đứa con nói với quê hương:
Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai
Nam bình Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Khổ thơ mang đậm làn điệu dân ca xứ Huế và là khổ thơ duy nhất trong bài có hình ảnh Huế – quê hương của tác giả. Không vì thế mà bài thơ không chứa trong đó tình cảm của tác giả đối với quê hương. Cái hay của câu thơ ở chỗ đã đúc kết được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của xứ Huế thơ mộng và chất chứa trong đó là nỗi niềm của một người con đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Bài thơ được viết khi tác giả phải nằm trên giường bệnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống và hơn cả là tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước. Đó chính là thông điệp Thanh Hải gửi đến tất cả mọi người: “Hãy góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất nước, của dân tộc”.
cậu có phải là nguyễn trang lớp 5c1 trường tiểu học xã thành lợi điểm trường C
Hãy viết đoạn văn ngắn khoảng 6 – 8 câu miêu tả khung cảnh mùa thu ở thành phố nơi em sống. Đoạn có sử dụng ít nhất 1 từ láy, 1 đại từ
Em tham khảo nhé:
“Hà Nội mùa thu! Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ.
Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thơm nâu…”
Đó là bài ca cha thường hay bật mỗi độ thu về, như gợi thêm nhung nhớ yêu thương cho một mùa thu thủ đô đặc trưng và gần gũi. Mùa thu là mùa đẹp nhất trong năm, cũng là mùa lãng mạn nhất, yên bình nhất. Thu về, muôn ngàn cây cối chuyển màu lá đỏ, lá vàng, nhuộm kín cả một con đường thành phố, bước trên từng thảm lá rơi mà ngỡ như mình đang đi trên những con đường trong truyện cổ tích xưa bà thường hay kể. Mùa thu, em(đại từ để trỏ) nhớ nhất là những buổi sớm đi bán hàng cốm cùng mẹ, mùi hoa sữa thơm nồng nàn phả vào trong làn gió se, mát mẻ và thư thái. Làn sương mờ bao kín không gian, huyền ảo và chùng chình. Thu về gợi cho con người ta những cảm giác rất lạ, đi giữa trời thu lặng mát, những miền ký ức tuổi thơ đâu đó dội về, “mặt nước lá vàng lay bờ xanh mời gọi”, “bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời”… Nàng thu lúc nào cũng mang dáng vẻ e ấp và dịu dàng, như người chị gái đi xa trở về, khiến lòng người cảm xúc dạt dào mà muốn ôm lấy, muốn níu giữ mãi không gian ấy. Thu, người ta hay lòng vòng phố bằng những chiếc xe đạp, mặt ai nấy đều trông thật thanh sáng và có dáng vẻ gì đó trầm tư suy nghĩ. Thu lấy đi cái ồn ào, vội vã, tạm gửi nơi ta những thứ chậm rãi, yên bình và lặng lẽ. Mỗi năm đến những ngày thu tháng 9, mẹ hay mua về những chậu cúc vàng xinh xắn, mẹ nói mẹ gọi thu về nhà. Mùa thu đẹp đẽ, gần gũi, cứ nhẹ nhàng như vậy, cho ta thêm yêu lấy mùa thu Hà Nội, mùa thu xứ sở.
Từ láy+ đại từ: In đậm nghiêng