Tìm hiều về nghề dát bạc ở làng Giáp Lục
Hãy tưởng tượng em được đi tham quan và tìm hiểu về 1 làng nghề truyền thống ở đó , em được phỏng vấn 1người thợ làng nghề , viêt 1 bài văn kể lại trải nhiêm đó .
* Phần thân bài cần trình bày rõ những ý sau :
- nghề có từ bao giờ
- Những hoạt đọng đặc trưng của nghề
- Để làm nghề người thợ cần đáp ứng những yêu cầu gì
- những thiết bị và dụng cụ để làm nghề
- Thể hiện an toàn lao động như thế nào
Giáp và Ất là đôi bạn chí thân, ở hai làng cách nhau con sông. Giáp mượn Ất 10 lạng bạc làm ăn, đã lâu không trả, cũng không lui tới với Ất. Nghĩ rằng Giáp có điều tủi hổ vì không trả được nợ, Ất từ giã vợ con sang sông thăm bạn, và mang theo 5 lạng bạc để phòng khi cần thì giúp thêm lần nữa.
Đến nơi thấy nhà Giáp bề ngoài có vẻ khá giả, Ất thầm mừng cho bạn, bèn giấu 5 lạng bạc trên nóc cổng rồi đi vào. Ngỡ Ất sang đòi nợ, vợ chồng Giáp bàn nhau thết tiệc rồi phục rượu giết đi, xác vùi ở gốc khế sau vườn.
Nhiều năm trôi qua, cây khế rất tươi tốt, nhưng chỉ ra một quả lớn khác thường. Lúc có thai, thèm chua, vợ Giáp bèn hái ăn, rồi sinh một trai mặt mũi khôi ngô, nhưng ba, bốn tuổi vẫn chẳng biết nói. Vợ chồng Giáp van vái tứ phương thì một hôm thằng bé hốt nhiên mở miệng, nằng nặc đòi phải mời quan huyện tới.
Gặp quan, thằng bé xưng tên là Ất, kể rõ đầu đuôi vụ án. Theo lệnh quan, lính ra đào gốc cây khế, quả nhiên tìm được bộ xương người; moi trên nóc cổng, hãy còn đủ 5 lạng bạc.
Vợ chồng Giáp bị quan trị tội; thằng bé trở về làng cũ. Bấy giờ con trai Ất cũng đã sinh con, thành thử khi gia đình đoàn tụ thì ông và cháu suýt soát nhau, con trai Ất lại già tuổi hơn Ất.
Câu chuyện cổ này nói lên câu ca dao gì?
Hãy kể tên một số làng nghề truyền thống ở quận Cầu Giấy mà em biết (từ 4 làng nghề trở lên). Trình bày hiểu biết của em về một trong số những làng nghề truyền thống đó? Theo em, cần làm gì để gìn giữ và phát huy các làng nghề truyền thống hiện nay?
Giúp tớ với, tớ cảm ơn ạ
Câu 2. Trước đây, Thịnh Liệt có mấy giáp?
A. 7 giáp B. 8 giáp C. 9 giáp D. 10 giáp
Câu 3. Truyền thống hiếu học Làng khoa bảng là làng nào ở Thịnh Liệt?
A. Làng Giáp Nhất B. Làng Giáp Nhị C. Làng Giáp Bát D. Làng Giáp Cửu
Câu 4. Dòng họ có Truyền thống hiếu học Làng khoa bảng ở Thịnh Liệt là?
A. Họ Lê B. Họ Nguyễn C. Họ Trần D. Họ Bùi
Câu 5. Dòng họ Bùi ở Thịnh Liệt có mấy người độ đại khoa và được khắc tên bia tiến sĩ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám
A. 4 người B. 5 người C. 6 người D. 7 người
Câu 6. Hiện nay, ở Văn Miếu - Hà Nội vẫn còn khắc tên những người đỗ đại khoa của dòng họ Bùi (Thịnh Liệt, Hoàng Mai) bao gồm:
A. Bùi Trụ, Bùi Huy Bích, Bùi Vịnh, Bùi Phổ.
B. Bùi Bỉnh Quân, Bùi Bành, Bùi Vịnh, Bùi Trụ.
C. Bùi Xương Trạch, Bùi Vịnh, Bùi Bỉnh Quân, Bùi Huy Bích.
D. Bùi Xương Trạch, Bùi Trụ, Bùi Bỉnh Quân, Bùi Huy Bích.
mình học lớp 6 nhưng cũng có học cái này đâu cậu cho câu hỏi của cậu à
Tìm hiểu thêm thông tin về làng thủ công truyền thống Việt Nam, em hãy:
- Mô tả vài nét về một làng nghề thủ công đã có từ thế kỉ XVI - XVIII.
- Đề xuất những giải pháp để bảo tồn làng nghề đó.
Tham khảo: Giới thiệu đôi nét về làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh)
* Yêu cầu số 1: Mô tả đôi nét về làng nghề
- Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, là làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Cách Hà Nội chừng 33 km về hướng Đông và nằm sát bờ Nam đê sông Đuống, làng Hồ hay Đông Hồ là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt.
- Xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm: tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh.
- Có thể nói giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời cực thịnh của làng tranh, với 17 dòng họ trong làng đều tham gia làm tranh.
- Qua những năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), do chiến tranh tàn phá khốc liệt nên nghề làm tranh cũng tạm bị gián đoạn.
- Đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc nhất là khi đất nước thống nhất thì làng tranh mới được khôi phục. Đáng tiếc là qua mấy chục năm đổi mới theo nền kinh tế thị trường và với sự tác động của các trào lưu nghệ thuật phương Tây, nhận thức và xu hướng xã hội cũng có sự thay đổi đẩy dòng tranh Đông Hồ đối mặt với sự tồn vong của chính mình.
* Yêu cầu số 2: Đề xuất biện pháp bảo tồn:
- Xây dựng quy hoạch tổng thể và vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề.
- Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của các làng nghề truyền thống.
- Phát triển làng nghề truyền thống gắn với hoạt động du lịch trải nghiệm.
- Tôn vinh các nghệ nhân; đẩy mạnh các hoạt động học hỏi, truyền nghề cho thế hệ trẻ.
Khái niệm chính về làng nghề gốm sứ ở Bình Dương .
tham khảo
Làng nghề gốm Chánh NghĩaLàng gốm Chánh Nghĩa (làng gốm Bà Lụa), ra đời vào cuối thế kỷ 19 với tên gọi chính thức là lò Vương Lương – lò ông Tía. Với nguồn nguyên liệu đất chính là đất đen, đất trắng và đất Vĩnh Tường. Các sản phẩm gốm đều mang dấu ấn của gốm Đông Triều
tham khảo ##
Làng nghề gốm Chánh NghĩaLàng gốm Chánh Nghĩa (làng gốm Bà Lụa), ra đời vào cuối thế kỷ 19 với tên gọi chính thức là lò Vương Lương – lò ông Tía. Với nguồn nguyên liệu đất chính là đất đen, đất trắng và đất Vĩnh Tường. Các sản phẩm gốm đều mang dấu ấn của gốm Đông Triều
tk
Làng nghề gốm Chánh NghĩaLàng gốm Chánh Nghĩa (làng gốm Bà Lụa), ra đời vào cuối thế kỷ 19 với tên gọi chính thức là lò Vương Lương – lò ông Tía. Với nguồn nguyên liệu đất chính là đất đen, đất trắng và đất Vĩnh Tường. Các sản phẩm gốm đều mang dấu ấn của gốm Đông Triều
Câu 1. Nêu khái niệm làng nghề và kể tên 5 làng nghề truyền thống ở Hà Nội.
Câu 2. Nêu thuận lợi và khó khăn của làng nghề ở Hà Nội.
Câu 1:
- Khái niệm làng nghề:
+ Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
+ Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề mà cũng có hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần thể để phát triển công ăn việc làm.
- 5 làng nghề truyền thống ở Hà Nội:
+ Làng gốm Bát Tràng
+ Làng lụa Vạn Phúc
+ Làng chuồn chuồn tre Thạch Xá
+ Làng nón Chuông – Chương Mỹ
+ Làng tương bần Yên Nhân
Câu 1:
- Khái niệm làng nghề:
+ Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
+ Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề mà cũng có hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần thể để phát triển công ăn việc làm.
- 5 làng nghề truyền thống ở Hà Nội:
+ Làng gốm Bát Tràng
+ Làng lụa Vạn Phúc
+ Làng chuồn chuồn tre Thạch Xá
+ Làng nón Chuông – Chương Mỹ
+ Làng tương bần Yên Nhân
Câu 2:
`Khó` `khăn:`
`→` Các sản phẩm từ nghề truyền thống chịu sự tác động của nền kinh tế thị trường và gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ, dẫn đến nguy cơ mai một.
`Thuận` `lợi:`
`→` Một số hộ gia đình vẫn giữ được truyền thống làm nghề và vẫn phát triển mạnh mẽ đễn ngày nay.
Tìm hiểu một làng nghề thủ công nổi tiếng của Đại Việt trong các thế kỉ XVI-XVIII còn duy trì hoạt động cho đến ngày nay. Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu về làng nghề đó.
Tham khảo:
Giới thiệu về làng tranh Đông Hồ
- Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, là làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Cách Hà Nội chừng 33 km về hướng Đông và nằm sát bờ Nam đê sông Đuống, làng Hồ hay Đông Hồ là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt.
- Xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm: tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh.
- Có thể nói giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời cực thịnh của làng tranh, với 17 dòng họ trong làng đều tham gia làm tranh.
- Qua những năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), do chiến tranh tàn phá khốc liệt nên nghề làm tranh cũng tạm bị gián đoạn.
- Đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc nhất là khi đất nước thống nhất thì làng tranh mới được khôi phục. Đáng tiếc là qua mấy chục năm đổi mới theo nền kinh tế thị trường và với sự tác động của các trào lưu nghệ thuật phương Tây, nhận thức và xu hướng xã hội cũng có sự thay đổi đẩy dòng tranh Đông Hồ đối mặt với sự tồn vong của chính mình.
Viết đoạn văn ngắn tóm tắt về làng nghề giấy dó ở Hà Nội.
Theo thư tịch cổ, vào thế kỉ XIII ở phía Tây kinh đô Thăng Long, có một xóm thợ chuyên nghề làm giấy; theo thần phả còn được lưu giữ tại các đình ở vùng này cho biết, từ thời Lý, làng Dịch Vọng đã có nhiều gia đình chuyên nghề làm giấy. Thời đó dòng Tô Lịch còn chảy qua làng, có chiếc cầu gỗ bắc qua sông, dân làng đặt tên cầu là Cầu Giấy – cầu của làng có nghề làm giấy, để ghi nhớ nghề nghiệp của quê hương. Ngày nay cầu cũ không còn, nhưng dấu tích của nghề làm giấy ở cố đô Thăng Long vẫn gắn mãi với địa danh này.Trong nước ta còn có một số nơi có nghề làm giấy như làng Xuân Ổ còn gọi là làng Ó ở Tiên Sơn – Bắc Ninh, làng Mai Chử (làng Mơ) thuộc huyện Đông Sơn, Thanh Hóa làm giấy bản. Làng Lộc Tụy và Đại Phú (Lệ Thủy – Quảng Bình) sản xuất giấy bằng vỏ cây niết, làng Từ Vân – Thanh Oai – Hà Tây làm giấy bìa bổi… nhưng không đâu nổi tiếng bằng vùng giấy Bưởi – Thăng Long . Con cháu bà đều đi làm nhà nước, chẳng ai chịu giữ lấy nghề tổ liềm seo. Vì vậy, sản phẩm làm ra phải mang sang tận vùng Thuận Thành để bán cho những người seo giấy làm hàng mã, in tranh ở làng Mái, Đông Hồ.