Bài làm
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Khuyến không chỉ được biết đến là "nhà thơ của làng cảnh Việt Nam" với chùm thơ thu nức tiếng, mà còn là một cây bút trào phúng sắc sảo, thâm trầm. Thơ trào phúng của ông không chỉ để cười đời, cười người mà chua xót nhất là để cười mình. Bài thơ "Ông phỗng đá" là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy. Ẩn sau hình ảnh ông phỗng đá vô tri là nỗi niềm thế sự ngổn ngang và bi kịch của một bậc trí thức bất lực trước thời cuộc.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn nhưng hàm súc. Ngay từ câu mở đầu, tác giả đã buông một câu hỏi tu từ đầy vẻ thân mật nhưng cũng đượm màu mỉa mai:
"Ông đứng làm chi đó hỡi ông?"
Câu hỏi "làm chi" vang lên như một sự chất vấn về mục đích tồn tại. "Ông phỗng" trong văn hóa dân gian thường là những tượng người bằng đá hoặc đất nung, đứng chầu ở các đền miếu, lăng tẩm với tư thế cung kính, bất động. Nguyễn Khuyến hỏi "ông" nhưng thực chất là đang tự hỏi về một kiếp người, một tầng lớp trong xã hội. Đến câu thứ hai, hình tượng ông phỗng hiện lên rõ nét hơn qua bút pháp miêu tả:
"Trơ trơ như đá, vững như đồng."
Từ láy "trơ trơ" được đặt ở đầu câu tạo ấn tượng mạnh mẽ. "Trơ" vừa là trơ gan cùng tuế nguyệt, dãi dầu mưa nắng, nhưng cũng gợi lên sự trơ lì, vô cảm, không biết xấu hổ. Biện pháp so sánh "như đá", "như đồng" nhấn mạnh sự cứng cỏi, bền vững về mặt hình thức. Ông phỗng đứng đó, vững chãi, không gì lay chuyển được. Thế nhưng, trong bối cảnh đất nước loạn lạc, sự "vững như đồng" ấy liệu có phải là bản lĩnh hay chỉ là sự vô dụng, vô tri của những kẻ "mũ ni che tai"?
Hai câu thơ sau đẩy tứ thơ đi xa hơn, từ hình dáng bên ngoài đi vào chức năng và nhận thức bên trong:
"Đêm ngày gìn giữ cho ai đó? Non nước đầy vơi có biết không?"
Câu hỏi thứ hai "gìn giữ cho ai đó?" vang lên đầy chua chát. Nhiệm vụ của ông phỗng là canh giữ đền miếu, nhưng ở đây, Nguyễn Khuyến lại đặt ra vấn đề về sự phương hướng. "Ai" ở đây là ai? Là vua, là chúa, hay là những giá trị mục ruỗng của chế độ phong kiến đang suy tàn? Sự tận tụy "đêm ngày" của ông phỗng trở nên vô nghĩa nếu mục đích phục vụ không còn chính nghĩa.
Câu kết bài thơ là một đòn tâm lý nặng nề, xoáy sâu vào tâm can người đọc và chính tác giả: "Non nước đầy vơi có biết không?". "Non nước đầy vơi" là hình ảnh ẩn dụ cho vận mệnh đất nước đang trong cơn bĩ cực, khi thực dân Pháp xâm lược, chủ quyền dân tộc bị đe dọa, lòng người ly tán. Câu hỏi "có biết không" như một lời trách móc nhẹ nhàng mà đau đớn. Ông phỗng đá kia dĩ nhiên là không biết, vì ông là đá. Nhưng những "ông phỗng thịt" – những quan lại, những kẻ sĩ đương thời – đứng đó, mắt thấy tai nghe mà lòng lại dửng dưng như đá thì thật đáng trách.
Tuy nhiên, đỉnh cao của bài thơ này không nằm ở việc phê phán người khác, mà nằm ở sự tự trào (cười mình). Nguyễn Khuyến là một đại quan của triều Nguyễn, đỗ đầu ba kỳ thi (Tam Nguyên Yên Đổ), nhưng trước cảnh nước mất nhà tan, ông chọn cách cáo quan về ở ẩn để giữ khí tiết. Tuy nhiên, trong sâu thẳm lương tâm của một nhà nho, ông vẫn day dứt vì mình không giúp gì được cho đời.
Ông ví mình như "ông phỗng đá": cũng có mắt, có tai, cũng mang tiếng là kẻ sĩ đứng trong trời đất, nhưng rốt cuộc lại bất lực, "trơ trơ" nhìn non nước đầy vơi mà không thể xoay chuyển tình thế. Tiếng cười trào phúng ở đây đã chuyển hóa thành giọt nước mắt lặn vào trong. Đó là nỗi đau của một nhân cách lớn, một người yêu nước nhưng mang nỗi bi kịch của thời đại.
"Ông phỗng đá" là một bài thơ đa nghĩa và sâu sắc. Bằng ngôn ngữ giản dị, giọng điệu vừa hóm hỉnh vừa chua xót, Nguyễn Khuyến đã mượn hình tượng ông phỗng đá để gửi gắm tâm sự u hoài về vận nước. Bài thơ là bức chân dung tinh thần của cụ Tam Nguyên Yên Đổ: bên ngoài thì cười cợt thế thái nhân tình, nhưng bên trong là một trái tim rỉ máu vì non sông.