kể lại truyện "Sự tích cây vú sữa" bằng lời kể của người con
Kể lại 1 đoạn câu chuyện Sự tích cây vú sữa bằng lời của em.
Em kể 1 đoạn và thể hiện tình cảm, thái độ của mình với nhân vật.
Ví dụ kể lại đoạn 1: Ngày xưa, có một cậu bé ham chơi, nghịch ngợm. Trong một lần bị me mắng, cậu dỗi mẹ, bỏ nhà đi. Mẹ cậu buồn bã, ở nhà ngóng trông con mãi nhưng chẳng thấy cậu về.
Hãy đóng vai nhân vật người con để kể lại câu chuyện “Sự tích cây vú sữa”
Tôi là một cậu bé rất ham chơi và nghịch ngợm .. Một lần ,do mẹ tôi mắng tôi ,nên tôi đã giận mẹ và bỏ nhà ra đi .. Tôi là cà khắp mọi nơi ,tìm đủ thứ để chơi .. Tôi đâu biết rằng mẹ của tôi ở nhà đã đau buồn và mong tôi trở về như thế nào .. Càng bỏ nhà ra đi ,tôi càng nhớ mẹ ,bị rét và bị lũ bạn đập ,tôi vội vã quay về ..Lúc tôi về nhà thì không thấy mẹ ở đâu ,tôi la hét tìm mẹ ở mọi nơi nhưng không thấy .. Tôi ngồi xuống cạnh cây vú sữa mà khóc .. Đột nhiên cây vú sữa run rẩy ,nở rộ hoa và quả ,các cành cây chỉa xuống như muốn oomt ôi vào lòng .. Tôi vội lấy ăn một qua vú sữa.. Vừa ngọt vừa mát như dòng sữa mẹ .. Lúc này tôi đã hiểu ra mọi chuyện nên rất ân hận và cây vú sữa dường như cũng hiểu được điều đó nên các cành chỉa xuống để ôm tôivào lòng .
Lập dàn ý cho đề văn sau:
- Đóng vai người con kể lại truyện Cây Vú Sữa
đóng vai Người mẹ hãy kể lại sự tích cây vú sữa
Em hãy nêu nội dung của truyện cổ tích Sự tích cây vú sữa .
Người mẹ trong sự tích cây vú sữa đã dùng tình cảm của mình để cảm hóa cậu bé con ham chơi. Câu chuyện sự tích cây vú sữa này chúng ta thấy được một bài học về lòng hiếu thảo trong gia đình. Đồng thời cũng nhắc nhở những đứa con khi ba mẹ còn sống hãy có hiếu, đối xử tốt với ba mẹ.
Chuyện kể về cậu bé ham chơi bỏ nhà đi khiến cho mẹ buồn bã mất đi. Khi cậu trở về quanh sân nhà chỉ còn lại một cái cây với loại quả cho dòng sữa ngọt ngào, thơm ngon như sữa mẹ. Sau đó được mọi người gọi là cây vú sữa. Ngày xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi, không nghe lời mẹ.
chuyện sựu tích cây vú sữa là nói về 1 cậu bé ham chơi quên đến mẹ ở nhà.Đến khi mẹ mất mới bắt đầu nhớ,nhưng lúc đó quá muộn để khóc.
->Rút ra bài học:Hẫy biết tôn trọng những j mình đang có,đừng để mất đi thì mới nhớ đến.
Em hãy tìm đọc truyện cổ tích Cây khế và đọc bài văn kể lại truyện Cây khế, sau đó trả lời những câu hỏi sau:
1. Người kể có nêu được thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện hay không?
2. Người kể có đảm bảo kể đủ những sự việc chính đã diễn ra trong truyện Cây khế hay không?
3. Những hành động của nhân vật trong truyện có bị người kể bỏ sót hay không?
4. Từ bài văn kể lại truyện Cây khế, em học được điều gì về cách kể lại một truyện cổ tích?
1. Người kể đã nêu được thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện: ngày xưa và tại một nhà kia.
2. Người kể đã đảm bảo kể đủ những sự việc chính đã diễn ra trong truyện Cây khế:
- Cha mẹ mất sớm, người anh lấy hết của cải.
- Chim ăn khế và trả vàng cho nhà người em.
- Người anh đòi đổi tài sản lấy cây khế của em.
- Do quá tham lam, bắt chim chở nặng nên người anh đã rơi xuống biển và bị sóng cuốn đi.
3. Những hành động của nhân vật trong truyện không bị người kể bỏ sót:
- Hành động của người anh độc ác lấy hết gia sản.
- Người em hiền lành cho chim ăn khế.
- Con chim biết lấy vàng trả ơn.
- Người anh tham lam bắt chim chở nặng và nhận lấy cái chết.
4. Từ bài văn kể lại truyện Cây khế, em học được cách kể lại một truyện cổ tích đó là phải đáp ứng đầy đủ nội dung và hình thức của văn bản:
- Trình bày tên truyện và lí do kể truyện.
- Giới thiệu nhân vật, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
- Trình bày các sự việc chính của truyện.
- Trình bày kết thúc truyện.
- Suy nghĩ của bản thân về kết thúc truyện.
kể lại truyện cây khế bằng lời văn của người anh
tui chỉ kể được người em thôi nhưng mà nhân vật khác thì tôi có thể kể được hết .
Bài làm ( tui tự làm và sáng tạo )
Thời gian trôi qua , em tôi đã già còn tôi thì đã đi xa mãi mãi không về . Hôm nay tôi sẽ kể lại ngày xui xẻo .
Anh em tôi mồ côi cha mẹ rất sớm . Anh em tôi chăm lo làm lụng nên trong nhà cũng đủ ăn . Nhưng khi tôi có vợ thì tôi lại lười biếng bao nhiêu công việc dễ hoặc khó đều trút cho vợ chồng em tôi . Vợ chồng em tôi cố gắng thức khuyu , dậy sớm , cố gắng lắm lụng . Thấy vậy tôi đã chia cho vợ chồng em tôi một túp lều và cây khê , còn tôi được cả ruộng , vườn và ngồi sung sướng với vợ .
Những ngày vui nhất người em tôi là ngày khế chín . Khế lúc lỉu , xanh mơn mởn , em tôi định lên hái khế thì mặt đất rung chuyển như đang động đất thì xuất hiện có chim to , mỏ dài đến ăn khế của em tôi . Em tôi thấy tội cho nó ăn , ăn xong rồi chim bay vụt .
Ngày hôm sau , chim lại tới ăn khế tiếp , nó ăn rất ghê do mỏ rất to nó có thể ăn 2 3 quả một lúc , vợ nói :
- Chim ơi , chim ăn hết khế thì cháu còn khế đau mà sống nữa .
Chim nói :
- Ăn một quả khê , trả một cục vàng , may túi ba gang , mang đi mà đựng
Chim bay vụt đi . Đêm đó em tôi may tui bề dọc đúng ba gang , may xong rồi đi ngủ . Sáng hôm sau , vợ chồng em tôi dậy sớm , mây mù mịt thì chim xuất hiện và chở em tôi đi lấy vàng . Khi chim chở tới , đắp cánh xuống cho em tôi lấy vàng . Do em tôi ngại nên lấy it vàng rồi bay về .
Nghe tin em tôi giàu , nên tôi đã chạy qua nhà vợ chồng em tôi chơi và hỏi tại sao giàu nhanh tới thế . Em tôi đã kể hết chuyện . Nghe hết nên tôi bảo em tôi đổi tài sản . Em tôi đồng ý .
Tôi liền bảo vợ mang đồ sang ở túp lều . Buổi sáng , tôi dậy sớm để chờ chim tới ăn khế . Khi chim tới ăn thì vui nhưng tôi cũng giả vờ buồn và nói :
- Chim ơi , chim ăn hết khế thì còn là cây gì nữa .
Chim cũng nói như em tôi và bay vụt đi .
Tôi va vợ vui mừng liền may túi gấp 3 lần em tôi . Sáng hôm sau , tôi dậy thật sớm va chờ chim tới . Chim tới thì tôi tót lên lưng liền . Bay tới đảo chim cũng đắp cánh cho tôi lấy vàng . Vào hang sâu và rộng tôi sáng mắt vì vàng quá nhiều nên tôi cố nhặt thật nhiều . Túi đầy tui mang tui về lưng chim nhưng nặng quá nên tôi đi rất chậm , chim chờ lâu kêu lên mấy tiếng thì tôi mới tới . Bay ngược gió , vàng quá nặng , chim đuối sức chim ruổi cánh xuống và cả hai bị rới xuống biển . Nhưng tôi thì bị cuốn sóng đi , còn chim thì chỉ bị ướt lông và tiếp tục bay về rừng .
Hôm nay là ngày quá xui cho tôi giá như tôi mà không tham lam thì không phải gặp hậu quả đó .
Em hãy kể lại truyện “Bông hoa cúc trắng” bằng lời kể của người con.
Tình mẹ bao la như biển Thái Bình, dạt dào."
Cứ mỗi lần nghe câu hát này, em lại nhớ đến mẹ. Mẹ là người luôn yêu thương, che chở cho con cái. Tình yêu và công ơn trời biển của mẹ không bao giờ ta có thể đền đáp nổi. Vì vậy, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Câu chuyện “Sự tích hoa cúc trắng” là một trong những câu chuyện nói về sự hiếu thảo của con cái đối với mẹ mà em rất xúc động mỗi khi đọc.
Ngày xưa, có hai mẹ con sống với nhau trong một túp lều rách nát. Buồn thay, mẹ cô ngã bệnh nặng. Một hôm, dường như không chịu nổi, bà gọi cô đến bảo:
- Mẹ thấy mệt quá. Con đi tìm thầy thuốc cho mẹ.
Cô bé liền đi tìm ngay. Trên đường vào rừng sâu, cô ngồi khóc vì tìm mãi chưa thấy ai chữa bệnh được cho mẹ thì một ông cụ tóc bạc phơ hiện lên. Ông hiền từ nhìn cô bé và hỏi:
- Cháu ơi! Sao cháu lại khóc?
- Dạ thưa ông, cháu đi tìm thầy thuốc cho mẹ ạ. Mẹ cháu bị bệnh nặng lắm!
- Ta là thầy thuốc đây. Giờ cháu dẫn ta tới nhà, ta sẽ khám cho mẹ cháu.
Cô bé vui mừng, dẫn ông về nhà. Về đến nơi, ông bảo cô:
- Cháu vào rừng, tìm cây cổ thụ thật to, hãy hái những bông hoa màu trắng trên đó. Mỗi bông có bao nhiêu cánh thì mẹ cháu sẽ sống được bấy nhiêu ngày.
Vì lo cho mẹ, cô cứ đi hoài, đi mãi đến khi đôi chân đã rã rời thì cô đã thấy được cây cổ thụ cành lá sum suê. Dưới gốc cây, mọc lên những bông hoa màu trắng rất thơm, rất đẹp. Cô mừng rỡ, chạy đến bên hoa, hái rồi đếm:
- Một, hai,... Trời ơi! Bông hoa ít cánh thế này, mẹ chỉ sống được chừng này ngày nữa sao?
Cô bé nhớ lời ông cụ dặn, cô dùng tay xé từng cánh hoa thành nhiều sợi. Mỗi sợi bỗng biến thành một cánh hoa trắng muốt, xinh xinh. Cứ thế, bông hoa cô tìm được có thêm rất nhiều cánh.
Cầm bông hoa trắng xinh , cô chạy nhanh về nhà. Trở về nhà, cô thấy cụ đã đứng chờ ở cửa, cười và bảo với cô bé:
- Mẹ cháu đã hết bệnh rồi. Đó là nhờ sự hiếu thảo, ngoan ngoãn của cháu đấy.
Cô mừng vui gọi mẹ từ ngoài ngõ. Mới bước vào, cô đã thấy mẹ tươi cười, khoẻ mạnh đón cô. Cô ôm chầm lấy mẹ, hạnh phúc vô cùng.
Từ đó về sau, người ta gọi bông hoa đó là hoa cúc trắng, biểu tượng của lòng hiếu thảo của con đối với mẹ.
Qua câu chuyện, ta thấy được sự hiếu thảo của cô bé dành cho mẹ. Mẹ là người sinh thành ra chúng ta, ta cần biết yêu thương, vâng lời khi vẫn còn mẹ bên cạnh chăm từng bữa ăn, lo từng giấc ngủ. Mẹ yêu con bao la như biển cả, tình yêu đó ta không thể đền đáp hết được. Người xưa đã có câu:
"Ai còn có mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không".
Kể lại truyện truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm bằng lời kể của em
Vào thế kỉ XV, dưới ách đỏ hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu bao điều cơ cực. Mọi người căm giận quân xâm lược tới tận xương tuỷ. Nghĩa binh Lam Sơn buổi đầu nổi dậy lực lượng còn yếu. Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần dẹp giặc.
Một đêm nọ, ở Thanh Hoá có người dân chài tên là Lê Thận đi đánh cá. Sau hai lần quăng chài, Thận đều kéo được một thanh sắt. Lần thứ ba cũng vậy. Xem kĩ, Thận mới biết đó là lưỡi gươm bèn đem về nhà.
Sau đó, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, Lê Lợi vào thăm nhà Thận, đột nhiên lưỡi gươm loé sáng. Lê Lợi cầm xem, thấy hai chữ Thuận Thiên, nhưng không biết đó là gươm quý. .
Một lẩn bị giặc đuổi, lúc chạy qua khu rừng, Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra trên ngọn cây cao. ông trèo lên thì phát hiện đó là một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Lê Lợi giắt chuôi gươm vào thết lưng và giữ gìn cẩn thận. Ba ngày sau, Lê Lợi kể cho mọi người nghe chuyện này. Lê Thận đem lưỡi gươm của mình ra xin tra vào chuôi gươm thì vừa như in. Mừng rỡ, Lê Thận kính dâng thanh gươm báu cho chủ tướng Lê Lợi.
Từ ngày có gươm thần, khí thế nghĩa quân tăng lên rất mạnh, xông xáo tung hoành tìm giặc, đánh đâu thắng đó. Quân Minh bạt vía kinh hồn phải rút chạy. Đất nước ta sạch bóng quân xâm lược.
Một năm sau ngày chiến thắng, vua Lê dạo chơi bằng thuyền trên hổ Tả
Vọng. Bỗng một con Rùa Vàng rất lớn nhô mình lên khỏi làn nước xanh. Thuyền đi chậm lại. Tự nhiên nhà vua thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy. Rùa Vàng nổi hẳn lên mặt nước và nói: Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Vua Lê rút gươm thả vềphía Rùa Vàng. Rùa đớp lấy và lặn nhanh xuống nước.
Một vệt sáng vẫn còn le lói dưới hồ sâu.
Từ đó, hồ Tả Vọng được gọi là Hồ Gươm hay hổ Hoàn Kiếm.
Trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của thời gian Hà Nội vẫn mang trong mình những nét đẹp cổ thủ đô văn hiến. Và nhắc đến câu chuyện về Hà Nội, dấu ấn đầu tiên của đọng lại trong chúng ta có lẽ là hồ Gươm nơi còn lưu giữ câu chuyện về người anh hùng dân tộc Lê Lợi trả gươm rùa thần, trong lòng hồ Tả Vọng. Chuyện kể rằng:
Vào thế kỉ XV, dưới ách đô hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu muôn vàn khổ cực. Mọi người căm hận chúng đến tận xương tủy. Nghĩa quân Lam Sơn, lúc ấy đang trong buổi đầu phất cờ khởi nghĩa, lực lượng còn yếu, bị thua trận nhiều. Long Quân biết chuyện quyết đinh cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để dẹp giặc.Hồi ấy, ở Thanh Hóa có người dân chài tên là Lê Thận. Một đêm nọ, đi đánh cá ở bờ sông vắng, sau hai lần quang chài Thận chỉ kéo được ột thanh sắt. Đến lần thứ 3, vẫn là thanh sắt đó Thận mới soi đèn xem kĩ, thì phát hiện ra đó là một lưỡi gươm bèn đem về nhà.
Về sau, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn chàng hăng hái, gan dạ không hề sợ nguy hiểm. Một lần Lê Lợi đến thăm nhà Thận. Trong căn nhà tranh, bỗng dưng chủ tướng thấy có ánh sáng lạ tỏa ra từ một góc nhà, ông đến xem thì thấy đó là ánh sáng của lưỡi gươm trên đó có hai chữ Thuận Thiên. Nhưng lúc ấy tất cả mọi người vẫn không hề biết đó là gươm báu.
Một lần bị giặc đuổi, Lê Lợi cùng tướng sĩ phải rút chạy mỗi người một ngả. Khi đi ngang qua môt khu rừng Lê Lợi bỗng thấy trên ngọn cây đa có ánh sáng lạ. Ông trèo lên cây mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Lúc này, Lê Lợi nhớ đến lưỡi gươm có khắc chữ Thuận Thiên ở nhà Thận, ông dắt chuôi gươm bên mình. Khi trở về bèn lệnh cho Lê Thận mang lưỡi gươm đến và hỏi nguồn gốc thanh gươm. Lúc ấy, Thận mới từ tốn kể lại câu chuyện ba lần vớt được thanh gươm nơi bến sông vắng. Biết đây là ý trời, Lê Thận dâng thanh gươm cho chủ tướng, mà tâu rằng: “ Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc.”
Sau khi mọi người biết đó là gươm thần, nghĩa quân Lê Lợi ngày một nhuệ khí . Quân ta ra trận nào, thắng trận ấy bách chiến bách thắng. Tiếng tăm của nghĩa quân ngày được vang xa, binh lực của quân ta cũng tăng lên gấp bội. Nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, chiếm được nhiều kho lương thực để nuôi nghĩa quân và phân phát cho nhân dân. Cứ như thế quân ta nhanh chóng quét sạch kẻ thù, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi của nước ta. Cuộc sống nhân dân bình yên, no ấm.
Đuổi được giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua. Trong một lần ngự uyển quanh hồ Tả Vọng, Long Vương đã sai Rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi thuyền rồng của vua đi đến giữa hồ, vua thấy thanh gươm bên mình tự nhiên động đậy. Cùng lúc đó, hai bên mạn thuyền bỗng dưng có con sóng lớn, vua thấy thế bèn sai quân dừng thuyền lại. Rùa vàng liền tiếng đến phía vua và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”. Nghe Rùa vàng nói, vua hiểu ý, bèn lấy thanh gươm bên mình hướng về phía rùa vàng. Rùa vàng ngay lập tức há miệng đỡ lấy thanh gươm và từ từ chìm xuống nước.
Từ đó về sau hồ Tả Vọng có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Tên gọi ấy gắn liền với một vũ khí giàu chất chính nghĩa, tính nhân dân và chiến thắng vè vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng người anh hùng dân tộc Lê Lợi.
Vào thế kỉ XV, dưới ách đỏ hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu bao điều cơ cực. Mọi người căm giận quân xâm lược tới tận xương tuỷ. Nghĩa binh Lam Sơn buổi đầu nổi dậy lực lượng còn yếu. Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần dẹp giặc.
Một đêm nọ, ở Thanh Hoá có người dân chài tên là Lê Thận đi đánh cá. Sau hai lần quăng chài, Thận đều kéo được một thanh sắt. Lần thứ ba cũng vậy. Xem kĩ, Thận mới biết đó là lưỡi gươm bèn đem về nhà.
Sau đó, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, Lê Lợi vào thăm nhà Thận, đột nhiên lưỡi gươm loé sáng. Lê Lợi cầm xem, thấy hai chữ Thuận Thiên, nhưng không biết đó là gươm quý. .
Một lẩn bị giặc đuổi, lúc chạy qua khu rừng, Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra trên ngọn cây cao. ông trèo lên thì phát hiện đó là một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Lê Lợi giắt chuôi gươm vào thết lưng và giữ gìn cẩn thận. Ba ngày sau, Lê Lợi kể cho mọi người nghe chuyện này. Lê Thận đem lưỡi gươm của mình ra xin tra vào chuôi gươm thì vừa như in. Mừng rỡ, Lê Thận kính dâng thanh gươm báu cho chủ tướng Lê Lợi.
Từ ngày có gươm thần, khí thế nghĩa quân tăng lên rất mạnh, xông xáo tung hoành tìm giặc, đánh đâu thắng đó. Quân Minh bạt vía kinh hồn phải rút chạy. Đất nước ta sạch bóng quân xâm lược.
Một năm sau ngày chiến thắng, vua Lê dạo chơi bằng thuyền trên hổ Tả
Vọng. Bỗng một con Rùa Vàng rất lớn nhô mình lên khỏi làn nước xanh. Thuyền đi chậm lại. Tự nhiên nhà vua thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy. Rùa Vàng nổi hẳn lên mặt nước và nói: Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Vua Lê rút gươm thả vềphía Rùa Vàng. Rùa đớp lấy và lặn nhanh xuống nước.
Một vệt sáng vẫn còn le lói dưới hồ sâu.
Từ đó, hồ Tả Vọng được gọi là Hồ Gươm hay hổ Hoàn Kiếm.
Nguồn: https://yeuvan.com/ke-lai-truyen-truyen-thuyet-su-h-ho-guom-bang-loi-ke-cua-em-van-mau-lop-6#ixzz52TNI3coC