hãy vẽ sơ đồ về cuộc khởi nghĩa hương khê
nội dung của cuộc khởi nghĩa Hương Khê
hmm..theo mình thì nội dung chính là phần diễn biến đó
Tham Khảo
Sau khi đánh thắng nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802). Trong suốt thời gian Gia Long trị vì (1802-1819) về nội trị tương đối ổn định dù rằng có một số vùng dân chúng nổi lên chống lại triều đình, nhất là ở khu vực Đàng Ngoài với cả hàng chục vụ, nhưng đây chỉ là những cuộc nổi dậy lẻ tẻ, thế lực quá yếu, chỉ quấy phá ở một vài phủ huyện chẳng bao lâu sau đã bị dẹp tắt ngay. Nhưng sang đời vua Minh Mạng (1820-1840) đã có những cuộc nổi dậy với quy mô rộng lớn ở đất Bắc Kỳ như cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành (1821-1827), cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương (1826-1833) ở Ninh Bình, Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833-1835) nổi lên ở Cao Bằng quấy phá mấy tỉnh vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn và cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi ở đất lục tỉnh Nam Kỳ. Trong những cuộc khởi nghĩa kể trên, kiệt hiệt hơn cả, đó là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi trong năm 1833, chỉ trong vòng 1 tháng trời, quân của Khôi đã chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ, Khôi tự phong là đại nguyên suý và phong chức tước cho các đồ đảng chẳng khác chi một triều đình và phải cần đến gần 3 năm quan quân của triều đình mới phá tan được cứ điểm cố thủ cuối cùng của loạn quân là thành Bát Quái (nay nằm trong địa phận Sài Gòn)! Vậy mà ca dao lịch sử hầu như không ghi lại câu nào gọi là để kỷ công cho Lê Văn Khôi mà ngày nay chúng ta chỉ được biết có mỗi một câu nêu rõ tên của Khôi nhưng lại là một câu tỏ ý trách móc :
Bao giờ bắt được giặc Khôi,
Cho yên giặc nước chồng tôi mới về !
Cùng thời với câu ca dao trên còn một câu nữa cũng tỏ ý trách móc Lê Văn Khôi đã gây ra cuộc binh biến khiến cho quân lính đương thời phải vất vả mệt nhọc. Vào thời Minh Mạng (1820-1840), bến Trường Tiền và bến Bồ Đề thuộc kinh đô Phú Xuân là nơi đồn trú của 2 đội Thủy sư. Trong mấy năm đầu, quân triều đình tại các trấn Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đều bị quân của Khôi đánh cho liểng xiểng. Để đối phó với tình thế, sau khi một tướng của Khôi là Thái Công Triều, nguyên là một vị quan của triều đình theo Khôi làm phản nhưng sau đó đã về qui phục Triều đình xin đới công chuộc tội, Minh Mạng đã điều động 2 toán quân Thủy sư tại kinh đô vào Nam tham chiến. Đội quân kinh đô được gọi là quân Trấn Vũ chưa từng chinh chiến nơi xa nên ra đi mà trong lòng lo sợ không yên:
Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát
Gần bến Bồ Đề có bãi cát phẳng lì
Trời ơi, sanh giặc làm chi
Để quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn!
Trước cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi hơn 10 năm, tại đất Nam Định xứ Đàng Ngoài đã có cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành.
Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Phan Bá Vành đã lãnh đạo nghĩa binh lập căn cứ ở Trà Lũ (Nam Định) nổi lên khởi nghĩa chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã kéo dài gần 6 năm, hoạt động khắp các tỉnh ven biển từ Nam Định, Thái Bình đến Quảng Yên, có khi nghĩa quân hoạt động đến tận Sơn Tây, kéo vào đến Hòa Bình, Thanh Hóa. Đến năm Minh Mạng thứ 7 (1826), Phan Bá Vành lại liên kết với nghĩa binh của Võ Đức Cát và Nguyễn Hạnh đánh phá các phủ Trà Lý và Lân Hải (tháng 2 Bính Tuất, 1826), 2 quan thủ ngự của triều đình là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn đều bị hại. Quan trấn thủ Nam Định là Lê Mậu Diễn đem quân tiếp cứu cũng bị nghĩa binh giết chết. Thế của nghĩa quân mạnh như nước vỡ bờ, quân các trấn hiệp lực chống cự cũng rất khó khăn nhưng rồi đến cuối năm, một thủ lãnh của nghĩa quân là Lê Đức Cát bị thống chế Trương Phước Đặng vây bắt ở làng Đông Hào, Giao Thủy đem giết đi. Sau cái chết của Lê Đức Cát, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh liên kết với giặc Khách đang hoành hành ngoài biển đem 5000 quân vây khổn 2 huyện Tiên Minh và Nghi Dương ở Hải Dương. Trước thế mạnh của quân khởi nghĩa, Minh Mạng sai 2 tướng tài là quan tham hiệp Thanh Hóa Nguyễn Công Trứ, quan tham hiệp Nghệ An Nguyễn Hữu Thận cùng quan quân 2 tỉnh Thanh Nghệ hiệp với quân của quan hiệp trấn Bắc Thành cố tiêu diệt cho được cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Không nao núng trước lực lượng hùng hậu của triều đình, sang đầu năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) Phan Bá Vành lại cho quân chiếm 2 phủ Xuân Trường và Kiến Xương (Nam Định), vây khổn quân của Phạm Đình Bửu ở Chợ Quán khiến Nguyễn Công Trứ và Phạm Văn Lý phải dốc toàn lực để giải vây. Trước sức phản công mãnh liệt của quân triều đình, cuối cùng Phan Bá Vành cùng bộ hạ lại kéo nhau trở về Trà Lũ đào hào, đắp thành cố thủ. Bị vây ngặt, Phan Bá Vành định lợi dụng đêm hôm tìm đường thoát thân ra biển nhưng rồi, vào tháng hai năm Đinh hợi (1827), sau hơn 1 tháng cố thủ, quan quân triều đình vây bắt được Phan Bá Vành cùng 760 đồ đảng đem về trị tội. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành chấm dứt sau hơn 6 năm tung hoành trên địa bàn đất Bắc.
Như ta đã biết, trên đất Bắc, đồng thời với cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành còn có những cuộc khởi nghĩa qui mô khác như của Lê Duy Lương, Nồng Văn Vân . . .Trong những câu ca dao được xem là ca dao lịch sử còn lưu truyền cho đến ngày nay, hầu như không có câu nào nhắc đến tên tuổi của các thủ lãnh kể trên, trong lúc đó thì cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành ở đất Nam Định lại có nhiều câu ca dao nhắc đến hơn cả :
* Trên trời có ông sao Tua
Ở làng Nguyệt (Minh) Giám có vua Ba Vành
Phương Đông quật lũ hung tinh
Làm cho bảy viện tan tành ra tro
* Trên trời có ông sao Tua
Cầu Đông, bến Đá có vua Ba Vành
* Trên trời có ông sao Tua
Ở dưới mạn biển có vua Ba Vành
*Trên trời có ông sao Tua
Ba làng Trà Lũ có vua Ba Vành
Nhận xét đầu tiên của chúng ta là các câu trên đây đều có câu “lục” (tức câu thơ sáu chữ của thơ lục bát) giống nhau :
Trên trời có ông sao Tua !
Đây là một hình thức cấu tạo những câu ca dao mới cùng chung với nội dung của câu đầu tiên hoặc phản bác với nội dung của câu đầu tiên.
Các câu ca dao trên có chung một nội dung “tiên tri” nhằm ca tụng Phan Bá Vành, thủ lãnh của một cuộc khởi nghĩa đã làm cho quan quân của triều đình Minh Mạng phải nhiều phen thất điên bát đảo! Quả thực, đây chỉ là một “tiên tri” mang tính chất tuyên truyền vì thực tế chưa bao giờ Phan Bá Vành là vua và trong suốt thời gian lãnh đạo khởi nghĩa, ông cũng chưa bao giờ tự xưng là vua!
Các câu “bát” ở dưới đều xưng tụng Phan Bá Vành là “Vua” (Vua Ba Vành) và mỗi câu xuất hiện ở một địa phương nơi mà nghĩa quân Phan Bá Vành đã gây được nhiều thanh thế, tạo được nhiều chấn động nhân tâm trong quần chúng : làng Minh Giám hay làng Nguyệt Giám là làng sinh quán của Phan Bá Vành ; “Cầu Đông, Bến Đá” hay “Ở dưới mạn biển” là những vùng mà cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã từng hoạt động ! “Ba làng Trà Lũ” tức các làng Trà Trung, Trà Bắc và Trà Đoài thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định vừa là cứ điểm xuất phát, vừa là cứ điểm cố thủ cuối cùng của nghĩa quân Phan Bá Vành.
Những câu ca dao trên đây lúc đầu chắc hẳn đã xuất hiện trong hàng ngũ nghĩa quân Phan Bá Vành để làm công cụ tuyên truyền và cứ qua mỗi địa phương quan trọng, câu thơ tuyên truyền lại được thay đổi địa danh như ta đã thấy ở trên và có thể là trong buổi đầu, khi câu ca dao xuất hiện lần đầu tiên, nó được tuyên truyền như một “câu sấm” tiên tri Phan Bá Vành “sẽ là Vua”. Đây là một thủ đoạn chính trị mà các thủ lãnh khởi nghĩa đôi khi đã phải dùng để tự gây thanh thế cho mình như câu chuyện “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc xâm lăng nhà Minh (1417-1427). Vả lại, trong thời đại phong kiến, các thủ lãnh khởi nghĩa chống lại triều đình đều nhằm mục đích tối hậu: hoặc khởi nghĩa vì mục đích cần vương (tức ủng hộ cho một dòng họ đã bị thoán đoạt quyền hành) như những cuộc khởi nghĩa lấy danh nghĩa phù Lê, hoặc chính thủ lãnh khởi nghĩa có tham vọng diệt triều đại thối nát đương quyền để tự mình lên ngôi cửu ngũ như cuộc khởi nghĩa của anh em Tây Sơn với sự lên ngôi của Nguyễn Nhạc và về sau là của Nguyễn Huệ. Và có như vậy, các thủ lãnh khởi nghiã mới kêu gọi được sự hợp tác của từng lớp sĩ phu và của cả dân chúng ; và chúng ta có thể suy đoán câu ca dao đã xuất hiện gần như đồng thời với sự kiện nhằm mục đích gây thanh thế cho người thủ lãnh của phong trào tức Phan Bá Vành trong quảng đại quần chúng.
Những câu ca dao mang tính tuyên truyền như trên đã ăn sâu vào tâm thức của quảng đại quần chúng đương thời, dù ít dù nhiều cũng đã gây được ảnh hưởng tốt trong dân chúng và nhờ vậy mà chúng đã được bảo lưu cho đến ngày nay.
Câu ca dao sau đây cũng nhắc đến “vua Ba Vành” nhưng chắc hẳn nó đã không xuất hiện cùng thời với sự kiện Phan Bá Vành khởi nghĩa mà nó chỉ xuất hiện muộn về sau nhằm thẩm định giá trị của thủ lãnh Phan Bá Vành, và rõ ràng cuộc khởi nghĩa của ông tuy không thành công nhưng cũng đã để lại trong lòng dân chúng vùng quê hương ông một mối cảm tình tốt đẹp :
* Chẳng vui cũng thể hội chùa
Chẳng ngai, chẳng hốt cũng vua Ba Vành
Ngày nay, chúng ta đã có thể sưu tập hàng trăm câu ca dao được gọi là ca dao lịch sử. Trong hàng trăm câu đó, họa hoằn chúng ta mới bắt gặp dăm ba câu có nhắc đến tên một vài thủ lãnh khởi nghĩa một cách rõ ràng chính xác như mấy câu ca dao lịch sử trên đây. Đây cũng là một điều đáng để cho chúng ta lưu tâm tìm hiểu.
Như chúng ta có thể cảm nhận, dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất nhưng lại rất hiếu hòa. Bất khuất trước kẻ thù xâm lược, bất khuất trước những áp bức bất công, hà khắc của cường quyền, nhưng sau khi tinh thần bất khuất đã được biểu lộ hay đã tạo nên chiến thắng rồi thì tinh thần hiếu hòa lại là tinh thần chủ đạo trong cuộc sống. Họ không mấy khi nhắc đến chiến công. Họ không mấy khi miệt thị kẻ thù.
Thời nhà Lý (1010-1225), Lý Thường Kiệt đã đem quân đánh thẳng sang đất nước Trung Hoa hàng năm trăm dặm (1075), đã chiến thắng oanh liệt quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt (1076) cũng chỉ được nhắc đến một cách nhẹ nhàng, không hận thù, không khoa trương:
Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng!
Thời nhà Tây Sơn (1788-1802), Quang Trung Nguyễn Huệ đã lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh thắng 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, tạo nên chiến tích Đống Đa lừng lẫy (ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, 1789). “Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn” (VNSL, II, 134). Và về sau dân chúng còn lập cả đền thờ để thờ những linh hồn oan khuất của binh lính Mãn Thanh tử trận tại gò Đống Đa thuộc Hà Nội ngày nay:
Đống Đa ghi dấu lại đây,
Bên kia Thanh miếu, Bên này Bộc am!
Người có công sáng chế ra vũ khí chống Pháp trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê là
A. Phan Đình Phùng
B. Cao Thắng
C. Đốc Tít
D. Cầm Bá Thước
Người có công sáng chế ra vũ khí chống Pháp trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê là
A. Phan Đình Phùng.
B. Cao Thắng.
C. Đốc Tít.
D. Cầm Bá Thước.
Trình bày tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa hai bà Trưng. Em có nhận xét gì về lực lượng tham gia cuộc khởi nghĩa ?
tóm tắt cuộc khởi nghĩa :
Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là con gái lạc tướng huyện Mê LinhMùa xuân năm 40 hai bà trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát MônNghĩa quân khắp nơi kéo về hưởng ứng cuộc khởi nghĩanghĩa quân đánh bại kẻ thù làm chủ được Mê Linh, Cổ Loa, Luy Lâu.lực lượng tham ra cuộc khởi nghĩa đông
Tóm tắt khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra năm 40 – 43 chống ách đô hộ của nhà Hán.
Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai con gái của Lạc tướng ở huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát trên sông Hồng, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của hai Bà, nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào rộng lớn, từ miền xuôi đến miền núi, bao gồm người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành được thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi. Trưng Trắc được suy tôn làn vua (Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh, giữ được quyền tự chủ trong 3 năm.
- nhận xét gì về lực lượng tham gia cuộc khởi nghĩa: Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông đảo,trong đó phụ nữ đóng vai trò quan trọng,có 5 chủ tướng chỉ huy là nữ.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
a) Nguyên nhân;
- Do chính sách thống trị tàn bạo của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Tô Định giết chết.
b) Diễn biến;
- Mùa xuân năm 40 ( tháng 3 dương lịch ). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ( Hà Nội ), nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh rồi tìm hiểu Cổ Loa, Luy Lâu.
- Tô Định hốt hoảng bỏ thành lẻn trốn về Nam Hả, quân Hán ở các quận khác bị đánh tan.
c) Kết quả:
- Cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi.
Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông đảo, trong đó có phụ nữ đóng vai trò quan trọng. có chủ tướng chỉ huy là phụy nữ
Câu 1: vẽ và phân tích sơ đồ phân hóa xã hội nước ta thời Bắc thuộc.
Câu 2: dưới ách đô hộ của nhà Hán những việc làm nào chứng tỏ nhân dân ta vẫn giữ được nếp sống của mình.
Câu 3:năm 40 nổ ra cuộc khởi nghĩa nào? trình bày nguyên nhân kết quả diễn biến của cuộc khởi nghĩa đó.
Câu 4:giai đoạn từ năm 179 TCN -938 được gọi là thời kỳ gì?
Câu 5: cách đánh của ngô quyền có gì độc đáo, tại sao nói trận chiến trên sông bạch đằng năm 938 là một chiến thắng vĩ đại của dân tộc?
Câu 6: hãy đánh giá công lao của ngô quyền đối với lịch sử dân tộc?
Câu 3: Năm 40 nổ ra cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
* Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Nguyên nhân: Do ách đô hộ thống trị của nhà Hán nên nhân dân căm phẫn.Diến biến;mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ( Hà Tây ). Cuộc khởi nghĩa được các tướng lĩnh và nhân dân ủng hộ, chỉ trong thời gian ngắn nghĩa quân dã làm chủ Mê Linh, tiến đánh Cổ Loa rồi Luy Lâu.Thái thú Tô Định bỏ trốn, quân Hán bị đánh tan, cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi.3. Kết quả:
xóa ách áp bức tàn bạo của quân xâm lược Hán.giành lại độc lập cho dân tộc.4. Ý nghĩa: thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân tộc ta.
Hãy nên những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thời kì bắc thuộc và phân tích một cuộc khởi nghĩa có ảnh hưởng lớn tới quá trình lịch sử nước ta
Nhân dân ta kiên trì đấu tranh giành lại độc lập cho Tổ quốc, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa : cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 ; cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248, cuộc khởi nghĩa Lý Bí năm 542 - 602, cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan đầu thế kỉ XIII, cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng trong khoảng những năm 776 - 791, cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ năm 905, Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, kết thúc thời Bắc thuộc, mở ra thời kì mới, thời kì độc lập dân tộc.
Em có nhận xét gì về cuộc khởi nghĩa Lý Bí
-Tinh thần chiến đấu dũng cảm ;cách đánh giặc chủ động ,sáng tạo.
-Cuộc khởi nghĩa diễn ra trong khoảng thời gian ngắn và nhanh chóng giành thắng lợi
-Tinh thần chiến đấu anh dũng của nghĩa quân
-Sự chỉ huy tài tình của Lý Bí và các tướng lĩnh
-Sự đoàn kết,ủng hộ nhiệt tình của nhân dân
-Sự chuẩn bị chu đáo cho cuộc khởi nghĩa
-Thể hiện tinh thần yêu nước và lòng quyết tâm dành độc lập của nhân dân ta
-Đưa đất nước ta thoát khỏi ách thống trị cuả nhà Lương
CO CHIEN LUOC TRONG CHIEN DAU ,CO OC SANG TAO.
Bạn hãy viết hoặc vẽ sơ đồ tư duy về địa hình và núi Cooc-đi-e của Bắc Mĩ
Từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn em hãy rút ra công lao của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược?
tham khảo
Là người khởi xướng ,chỉ huy và lãnh đạo chống quân xâm lược nhà minh và cũng là người tạo nên chiến thắng chống quân minh.
+ Là người giải phóng Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa
+ Là người chấp nhận hi sinh để đánh đuổi quân xâm lược và chọn được một đội quân sĩ dũng cảm