đế quốc mạnh nhất từ thời xưa là gì
đại đế quốc phồn vinh nhất thời xưa là gì
tham khảo
Đế quốc La Mã (tiếng Latinh: Imperium Rōmānum, tiếng Latin cổ: [ɪmˈpɛ.ri.ũː roːˈmaː.nũː]; tiếng Hy Lạp Koine: Βασιλεία τῶν Ῥωμαίων, tr. Basileia tōn Rhōmaiōn) là chính quyền nối chế độ cộng hoà của La Mã cổ lấy hoàng đế làm lãnh tụ, thống trị lãnh thổ khắp quanh Địa Trung Hải ở châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. Từ lúc Caesar Augustus lên ngôi đến Khủng hoảng thế kỷ 3, Đế quốc do một hoàng đế trị, lấy Ý làm mẫu quốc, La Mã làm kinh đô (27 TCN – 286). Về sau được chia thành Đế quốc Tây La Mã, ban đầu đóng đô ở Milan, sau này ở Ravenna, và Đế quốc Đông La Mã, ban đầu ở Nicomedia, sau này ở Constantinopolis, do nhiều hoàng đế cùng trị. Trên danh nghĩa thì La Mã vẫn là thủ đô của cả Đông lẫn Tây đến năm 476 CN, lúc kinh đô cả nước dời về Constantinopolis (người Hy Lạp cổ đại gọi là Byzantium) sau khi Ravenna thất thủ dưới rợ German của Odoacer và hoàng đế Tây phần Romulus Augustus bị lật đổ. Sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã cùng sự Hy Lạp hóa Đế quốc Đông La Mã, giới sử học thường lấy làm giao điểm của cổ đại cổ điển và thời kỳ Trung Cổ.
Là chế độ trước Đế quốc La Mã, Cộng hoà La Mã trở nên bất ổn nguy hiểm bởi nội chiến và xung đột chính trị. Vào giữa thế kỷ 1 TCN, Julius Caesar được bổ nhiệm làm độc tài suốt đời, nhưng bị ám sát vào năm 44 TCN. Các cuộc nội chiến và đặt ra ngoài vòng pháp luật tiếp tục, đỉnh điểm của chúng là chiến thắng của Octavian, người con nuôi của Caesar, trước Marcus Antonius và Cleopatra tại Trận Actium vào năm 31 TCN. Năm sau, Octavian đã chinh phục nhà Ptolemaios của Ai Cập, điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Hy Lạp hóa mà đã bắt đầu bằng các cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế của Macedonia vào thế kỷ thứ 4 TCN. Quyền lực của Octavian khi đó là bất khả thách thức và vào năm 27 TCN, viện nguyên lão La Mã đã chính thức ban cho ông quyền lực tuyệt đối và tước hiệu mới Augustus, điều này khiến cho ông trở thành vị hoàng đế đầu tiên.
Hai thế kỷ đầu tiên của đế quốc là một thời kỳ ổn định và thịnh vượng chưa từng thấy ở Tây Âu, được biết đến như là Pax Romana ("Thái Bình La Mã"). Đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó dưới triều đại của Trajan (98–117 CN). Một giai đoạn bất ổn và suy tàn ngày càng tăng đã bắt đầu bằng triều đại của Commodus. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, đế quốc đã trải qua một cuộc khủng hoảng đe dọa đến sự tồn tại của nó, nhưng nó đã được tái thống nhất lại dưới triều đại của Aurelianus. Trong một nỗ lực để ổn định lại đế quốc, Diocletianus đã thiết lập hai triều đình đế quốc ở Đông phương Hy Lạp và Tây phương Latinh. Thiên chúa giáo đã nắm được quyền lực vào thế kỷ thứ 4 CN sau sắc lệnh Milan vào năm 313 và sắc lệnh Thessalonica vào năm 380. Một thời gian ngắn sau đó, Thời đại di dân mà bao gồm các cuộc xâm lăng lớn của những bộ tộc người German và người Huns dưới trướng vua Attila đã dẫn đến sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã và suýt tí nữa đã chiếm được thủ đô Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã. Cùng với sự thất thủ của Ravenna dưới bàn tay của người Heruli, sự kiện Odoacer lật đổ Romulus Augustulus vào năm 476 CN, đế quốc Tây La Mã cuối cùng đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480 CN.
Sau khi Đế quốc La Mã phía Tây bị sụp đổ thì Đế quốc La Mã phía Đông đóng vai trò như là một cường quốc bậc nhất ở Trung Đông lẫn Châu Âu và thủ đô Constantinopolish được mệnh danh là "thành phố vàng" bởi sự phồn thịnh và giàu có của nơi đây.Kể từ khi Justinianus I Đại đế (Đông La Mã) chinh phục được Bán đảo Ý, nhiều lần đã muốn hồi sinh lại Tây La Mã nhưng do bất ổn trong quốc gia và Tây La Mã đã quá suy yếu do những cuộc tàn phá của người Lombard và German lúc trước, nên kế hoạch không thành công.
Năm 1204 bắt đầu thời kì hỗn loạn của Đông La Mã khi bị Thập Tự Chinh xâm chiếm và phân chia lãnh thổ. Mãi đến năm 1261 mới tái chiếm lại các vùng đã mất. Hậu quả nó để lại là sự trì trệ khiến quốc gia lâm vào thế bị động và yếu thế hơn so với các cường quốc mới nổi trong khu vực. Vào thế kỉ thứ 15, Đế quốc Đông La Mã đã sụp đổ sau khi Constantinopolis thất thủ bởi đế quốc Ottoman dưới triều đại của Mehmed II vào năm 1453. Quốc gia kế tục được thừa nhận của Đông La mã là Đế quốc Trapezous cố gắng duy trì cho đến năm 1461 thì bị Ottoman chinh phục, kết thúc hơn 1000 năm tồn tại của Đế quốc Đông La Mã (hoặc gần 1.500 năm nếu tính từ Đế quốc La Mã ban đầu).
Do quy mô rộng lớn và sự lâu dài đế quốc La Mã, các thể chế và văn hóa của Rome đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với sự phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, kiến trúc, triết học, luật pháp, và các hình thái chính quyền ở những vùng lãnh thổ mà nó cai trị, đặc biệt là ở châu Âu. Tiếng Latin của người La Mã đã phát triển thành nhóm ngôn ngữ Rôman của thời trung cổ và hiện đại, trong khi tiếng Hy Lạp Trung Cổ đã trở thành ngôn ngữ của đế quốc Đông La Mã. Việc chấp nhận Thiên Chúa giáo của nó đã dẫn đến việc hình thành nên Nhà nước Thiên Chúa giáo trong thời kỳ Trung Cổ. Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã đã có ảnh hưởng sâu sắc đến thời kỳ Phục Hưng ở Ý vào giai đoạn cuối thời kỳ Trung cổ, trong khi đó chế độ cộng hòa của La Mã đã ảnh hưởng đến sự phát triển về mặt chính trị của các nhà nước cộng hòa sau này chẳng hạn như Mỹ và Pháp. Các văn thể của luật La Mã đã để lại di sản trong nhiều hệ thống pháp luật ngày nay, chẳng hạn như là bộ luật Napoleon. Truyền thống kiến trúc của Rome đã giữ vai trò như là nền tảng cho kiến trúc Tân cổ điển.
tham khảo
Đế quốc La Mã (tiếng Latinh: Imperium Rōmānum, tiếng Latin cổ: [ɪmˈpɛ.ri.ũː roːˈmaː.nũː]; tiếng Hy Lạp Koine: Βασιλεία τῶν Ῥωμαίων, tr. Basileia tōn Rhōmaiōn) là chính quyền nối chế độ cộng hoà của La Mã cổ lấy hoàng đế làm lãnh tụ, thống trị lãnh thổ khắp quanh Địa Trung Hải ở châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. Từ lúc Caesar Augustus lên ngôi đến Khủng hoảng thế kỷ 3, Đế quốc do một hoàng đế trị, lấy Ý làm mẫu quốc, La Mã làm kinh đô (27 TCN – 286). Về sau được chia thành Đế quốc Tây La Mã, ban đầu đóng đô ở Milan, sau này ở Ravenna, và Đế quốc Đông La Mã, ban đầu ở Nicomedia, sau này ở Constantinopolis, do nhiều hoàng đế cùng trị. Trên danh nghĩa thì La Mã vẫn là thủ đô của cả Đông lẫn Tây đến năm 476 CN, lúc kinh đô cả nước dời về Constantinopolis (người Hy Lạp cổ đại gọi là Byzantium) sau khi Ravenna thất thủ dưới rợ German của Odoacer và hoàng đế Tây phần Romulus Augustus bị lật đổ. Sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã cùng sự Hy Lạp hóa Đế quốc Đông La Mã, giới sử học thường lấy làm giao điểm của cổ đại cổ điển và thời kỳ Trung Cổ.
Là chế độ trước Đế quốc La Mã, Cộng hoà La Mã trở nên bất ổn nguy hiểm bởi nội chiến và xung đột chính trị. Vào giữa thế kỷ 1 TCN, Julius Caesar được bổ nhiệm làm độc tài suốt đời, nhưng bị ám sát vào năm 44 TCN. Các cuộc nội chiến và đặt ra ngoài vòng pháp luật tiếp tục, đỉnh điểm của chúng là chiến thắng của Octavian, người con nuôi của Caesar, trước Marcus Antonius và Cleopatra tại Trận Actium vào năm 31 TCN. Năm sau, Octavian đã chinh phục nhà Ptolemaios của Ai Cập, điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Hy Lạp hóa mà đã bắt đầu bằng các cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế của Macedonia vào thế kỷ thứ 4 TCN. Quyền lực của Octavian khi đó là bất khả thách thức và vào năm 27 TCN, viện nguyên lão La Mã đã chính thức ban cho ông quyền lực tuyệt đối và tước hiệu mới Augustus, điều này khiến cho ông trở thành vị hoàng đế đầu tiên.
Hai thế kỷ đầu tiên của đế quốc là một thời kỳ ổn định và thịnh vượng chưa từng thấy ở Tây Âu, được biết đến như là Pax Romana ("Thái Bình La Mã"). Đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó dưới triều đại của Trajan (98–117 CN). Một giai đoạn bất ổn và suy tàn ngày càng tăng đã bắt đầu bằng triều đại của Commodus. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, đế quốc đã trải qua một cuộc khủng hoảng đe dọa đến sự tồn tại của nó, nhưng nó đã được tái thống nhất lại dưới triều đại của Aurelianus. Trong một nỗ lực để ổn định lại đế quốc, Diocletianus đã thiết lập hai triều đình đế quốc ở Đông phương Hy Lạp và Tây phương Latinh. Thiên chúa giáo đã nắm được quyền lực vào thế kỷ thứ 4 CN sau sắc lệnh Milan vào năm 313 và sắc lệnh Thessalonica vào năm 380. Một thời gian ngắn sau đó, Thời đại di dân mà bao gồm các cuộc xâm lăng lớn của những bộ tộc người German và người Huns dưới trướng vua Attila đã dẫn đến sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã và suýt tí nữa đã chiếm được thủ đô Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã. Cùng với sự thất thủ của Ravenna dưới bàn tay của người Heruli, sự kiện Odoacer lật đổ Romulus Augustulus vào năm 476 CN, đế quốc Tây La Mã cuối cùng đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480 CN.
Sau khi Đế quốc La Mã phía Tây bị sụp đổ thì Đế quốc La Mã phía Đông đóng vai trò như là một cường quốc bậc nhất ở Trung Đông lẫn Châu Âu và thủ đô Constantinopolish được mệnh danh là "thành phố vàng" bởi sự phồn thịnh và giàu có của nơi đây.Kể từ khi Justinianus I Đại đế (Đông La Mã) chinh phục được Bán đảo Ý, nhiều lần đã muốn hồi sinh lại Tây La Mã nhưng do bất ổn trong quốc gia và Tây La Mã đã quá suy yếu do những cuộc tàn phá của người Lombard và German lúc trước, nên kế hoạch không thành công.
Năm 1204 bắt đầu thời kì hỗn loạn của Đông La Mã khi bị Thập Tự Chinh xâm chiếm và phân chia lãnh thổ. Mãi đến năm 1261 mới tái chiếm lại các vùng đã mất. Hậu quả nó để lại là sự trì trệ khiến quốc gia lâm vào thế bị động và yếu thế hơn so với các cường quốc mới nổi trong khu vực. Vào thế kỉ thứ 15, Đế quốc Đông La Mã đã sụp đổ sau khi Constantinopolis thất thủ bởi đế quốc Ottoman dưới triều đại của Mehmed II vào năm 1453. Quốc gia kế tục được thừa nhận của Đông La mã là Đế quốc Trapezous cố gắng duy trì cho đến năm 1461 thì bị Ottoman chinh phục, kết thúc hơn 1000 năm tồn tại của Đế quốc Đông La Mã (hoặc gần 1.500 năm nếu tính từ Đế quốc La Mã ban đầu).
Do quy mô rộng lớn và sự lâu dài đế quốc La Mã, các thể chế và văn hóa của Rome đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với sự phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, kiến trúc, triết học, luật pháp, và các hình thái chính quyền ở những vùng lãnh thổ mà nó cai trị, đặc biệt là ở châu Âu. Tiếng Latin của người La Mã đã phát triển thành nhóm ngôn ngữ Rôman của thời trung cổ và hiện đại, trong khi tiếng Hy Lạp Trung Cổ đã trở thành ngôn ngữ của đế quốc Đông La Mã. Việc chấp nhận Thiên Chúa giáo của nó đã dẫn đến việc hình thành nên Nhà nước Thiên Chúa giáo trong thời kỳ Trung Cổ. Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã đã có ảnh hưởng sâu sắc đến thời kỳ Phục Hưng ở Ý vào giai đoạn cuối thời kỳ Trung cổ, trong khi đó chế độ cộng hòa của La Mã đã ảnh hưởng đến sự phát triển về mặt chính trị của các nhà nước cộng hòa sau này chẳng hạn như Mỹ và Pháp. Các văn thể của luật La Mã đã để lại di sản trong nhiều hệ thống pháp luật ngày nay, chẳng hạn như là bộ luật Napoleon. Truyền thống kiến trúc của Rome đã giữ vai trò như là nền tảng cho kiến trúc Tân cổ điển.
Đế quốc La Mã (tiếng Latinh: Imperium Rōmānum, tiếng Latin cổ: [ɪmˈpɛ.ri.ũː roːˈmaː.nũː]; tiếng Hy Lạp Koine: Βασιλεία τῶν Ῥωμαίων, tr. Basileia tōn Rhōmaiōn) là chính quyền nối chế độ cộng hoà của La Mã cổ lấy hoàng đế làm lãnh tụ, thống trị lãnh thổ khắp quanh Địa Trung Hải ở châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. Từ lúc Caesar Augustus lên ngôi đến Khủng hoảng thế kỷ 3, Đế quốc do một hoàng đế trị, lấy Ý làm mẫu quốc, La Mã làm kinh đô (27 TCN – 286). Về sau được chia thành Đế quốc Tây La Mã, ban đầu đóng đô ở Milan, sau này ở Ravenna, và Đế quốc Đông La Mã, ban đầu ở Nicomedia, sau này ở Constantinopolis, do nhiều hoàng đế cùng trị. Trên danh nghĩa thì La Mã vẫn là thủ đô của cả Đông lẫn Tây đến năm 476 CN, lúc kinh đô cả nước dời về Constantinopolis (người Hy Lạp cổ đại gọi là Byzantium) sau khi Ravenna thất thủ dưới rợ German của Odoacer và hoàng đế Tây phần Romulus Augustus bị lật đổ. Sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã cùng sự Hy Lạp hóa Đế quốc Đông La Mã, giới sử học thường lấy làm giao điểm của cổ đại cổ điển và thời kỳ Trung Cổ.
Là chế độ trước Đế quốc La Mã, Cộng hoà La Mã trở nên bất ổn nguy hiểm bởi nội chiến và xung đột chính trị. Vào giữa thế kỷ 1 TCN, Julius Caesar được bổ nhiệm làm độc tài suốt đời, nhưng bị ám sát vào năm 44 TCN. Các cuộc nội chiến và đặt ra ngoài vòng pháp luật tiếp tục, đỉnh điểm của chúng là chiến thắng của Octavian, người con nuôi của Caesar, trước Marcus Antonius và Cleopatra tại Trận Actium vào năm 31 TCN. Năm sau, Octavian đã chinh phục nhà Ptolemaios của Ai Cập, điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Hy Lạp hóa mà đã bắt đầu bằng các cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế của Macedonia vào thế kỷ thứ 4 TCN. Quyền lực của Octavian khi đó là bất khả thách thức và vào năm 27 TCN, viện nguyên lão La Mã đã chính thức ban cho ông quyền lực tuyệt đối và tước hiệu mới Augustus, điều này khiến cho ông trở thành vị hoàng đế đầu tiên.
Hai thế kỷ đầu tiên của đế quốc là một thời kỳ ổn định và thịnh vượng chưa từng thấy ở Tây Âu, được biết đến như là Pax Romana ("Thái Bình La Mã"). Đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó dưới triều đại của Trajan (98–117 CN). Một giai đoạn bất ổn và suy tàn ngày càng tăng đã bắt đầu bằng triều đại của Commodus. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, đế quốc đã trải qua một cuộc khủng hoảng đe dọa đến sự tồn tại của nó, nhưng nó đã được tái thống nhất lại dưới triều đại của Aurelianus. Trong một nỗ lực để ổn định lại đế quốc, Diocletianus đã thiết lập hai triều đình đế quốc ở Đông phương Hy Lạp và Tây phương Latinh. Thiên chúa giáo đã nắm được quyền lực vào thế kỷ thứ 4 CN sau sắc lệnh Milan vào năm 313 và sắc lệnh Thessalonica vào năm 380. Một thời gian ngắn sau đó, Thời đại di dân mà bao gồm các cuộc xâm lăng lớn của những bộ tộc người German và người Huns dưới trướng vua Attila đã dẫn đến sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã và suýt tí nữa đã chiếm được thủ đô Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã. Cùng với sự thất thủ của Ravenna dưới bàn tay của người Heruli, sự kiện Odoacer lật đổ Romulus Augustulus vào năm 476 CN, đế quốc Tây La Mã cuối cùng đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480 CN.
Sau khi Đế quốc La Mã phía Tây bị sụp đổ thì Đế quốc La Mã phía Đông đóng vai trò như là một cường quốc bậc nhất ở Trung Đông lẫn Châu Âu và thủ đô Constantinopolish được mệnh danh là "thành phố vàng" bởi sự phồn thịnh và giàu có của nơi đây.Kể từ khi Justinianus I Đại đế (Đông La Mã) chinh phục được Bán đảo Ý, nhiều lần đã muốn hồi sinh lại Tây La Mã nhưng do bất ổn trong quốc gia và Tây La Mã đã quá suy yếu do những cuộc tàn phá của người Lombard và German lúc trước, nên kế hoạch không thành công.
Năm 1204 bắt đầu thời kì hỗn loạn của Đông La Mã khi bị Thập Tự Chinh xâm chiếm và phân chia lãnh thổ. Mãi đến năm 1261 mới tái chiếm lại các vùng đã mất. Hậu quả nó để lại là sự trì trệ khiến quốc gia lâm vào thế bị động và yếu thế hơn so với các cường quốc mới nổi trong khu vực. Vào thế kỉ thứ 15, Đế quốc Đông La Mã đã sụp đổ sau khi Constantinopolis thất thủ bởi đế quốc Ottoman dưới triều đại của Mehmed II vào năm 1453. Quốc gia kế tục được thừa nhận của Đông La mã là Đế quốc Trapezous cố gắng duy trì cho đến năm 1461 thì bị Ottoman chinh phục, kết thúc hơn 1000 năm tồn tại của Đế quốc Đông La Mã (hoặc gần 1.500 năm nếu tính từ Đế quốc La Mã ban đầu).
Do quy mô rộng lớn và sự lâu dài đế quốc La Mã, các thể chế và văn hóa của Rome đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với sự phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, kiến trúc, triết học, luật pháp, và các hình thái chính quyền ở những vùng lãnh thổ mà nó cai trị, đặc biệt là ở châu Âu. Tiếng Latin của người La Mã đã phát triển thành nhóm ngôn ngữ Rôman của thời trung cổ và hiện đại, trong khi tiếng Hy Lạp Trung Cổ đã trở thành ngôn ngữ của đế quốc Đông La Mã. Việc chấp nhận Thiên Chúa giáo của nó đã dẫn đến việc hình thành nên Nhà nước Thiên Chúa giáo trong thời kỳ Trung Cổ. Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã đã có ảnh hưởng sâu sắc đến thời kỳ Phục Hưng ở Ý vào giai đoạn cuối thời kỳ Trung cổ, trong khi đó chế độ cộng hòa của La Mã đã ảnh hưởng đến sự phát triển về mặt chính trị của các nhà nước cộng hòa sau này chẳng hạn như Mỹ và Pháp. Các văn thể của luật La Mã đã để lại di sản trong nhiều hệ thống pháp luật ngày nay, chẳng hạn như là bộ luật Napoleon. Truyền thống kiến trúc của Rome đã giữ vai trò như là nền tảng cho kiến trúc Tân cổ điển.
Qua đoạn văn:"" Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đế nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ nước và lũ cướp nước”.Em sẽ làm gì để thể hiện yêu quê hương đất nước? ÉT O ÉT EM VỚI Ạ
Từ khoảng hơn 1000 năm TCN, đế chế quân nào mạnh nhất thời bấy giờ?
Bn tham khảo nhé:
1,000 TCN: Ai Cập tiếp tục suy yếu, Assyrian tiếp tục thịnh vượng hơn, nhưng Trung Quốc thời cổ đại mới là thế lực hùng mạnh nhất với sự lật đổ nhà Thương và thay vào đó là nhà Chu. Đến giai đoạn này thì, Trung Quốc có nhiều đô thị lớn nhất, và cũng có diện tích lớn nhất thế giới.
Nguyên nhân thất bại của các phong trào đấu tranh ở khu vực Đông Nam Á là gì?
Vì sao kinh tế Nhật Bản từ cuối thế kỉ XIX phát triển mạnh?
Vì sao các nước đế quốc ráo riết chuẩn bị chiến tranh?
Điểm khác biệt giữa Liên Xô và các nước đế quốc thời kì 1945-1975 là gì?
A. Nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp
B. Đẩy mạnh phát triển khoa học kĩ thuật
C. Sản xuất chế tạo nhiều vũ khí, trang bị kĩ thuật quân sự hiện đại
D. Ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc bảo vệ hòa bình thế giới
Đáp án D
Các nước đế quốc sau chiến tranh thực hiện chính sách đối ngoại là bành trướng xâm lược (các nước Tây Âu quay trở lại xâm lược một số nước, Mĩ thành lập khối quân sự NATO ngăn cản sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc thế giới) Liên Xô là thành trì hòa bình, tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
Điểm khác biệt giữa Liên Xô và các nước đế quốc thời kì 1945-1975 là gì?
A. Nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp.
B. Đẩy mạnh phát triển khoa học kĩ thuật.
C. Sản xuất chế tạo nhiều vũ khí, trang bị kĩ thuật quân sự hiện đại.
D. Ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc bảo vệ hòa bình thế giới.
Các nước đế quốc sau chiến tranh thực hiện chính sách đối ngoại là bành trướng xâm lược (các nước Tây Âu quay trở lại xâm lược một số nước, Mĩ thành lập khối quân sự NATO ngăn cản sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc thế giới) Liên Xô là thành trì hòa bình, tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Câu 15. Sau chiến tranh Nga- Nhật, Nhật Bản bước lên địa vị:
A Một đế quốc hùng mạnh ở Viễn Đông. B. Một đế quốc giàu mạnh ở Viễn Đông,
C. Một cường quốc đế quốc ở Viễn Đông. D. Một nước tư bản phát triển mạnh.
Dựa vào đoạn dữ liệu sau và hiểu biết của các bạn hãy hoàn thành các yêu cầu bên dưới:
Nửa cuối thế kỷ XIX, kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Tuy nhiên, do hoàn cảnh, đặc điểm của các nước đế quốc là không giống nhau, nên mỗi nước có một đặc điểm riêng biệt khác nhau. Trong đó,……………………….là đế quốc thực dân. ……………………..là đế quốc cho vay lãi. ………………………..là đế quốc quân phiệt hiếu chiến. ………………………… là xứ sở của những ông vua công nghiệp với những Tơ-rớt khổng lồ.
chọn từ thích hợp điền vào chỗ chấm.
A. Anh, Đức, Mỹ, Pháp.
B. Anh, Pháp, Đức, Mỹ.
C. Đức, Anh, Pháp, Mỹ.
D. Mỹ, Anh, Pháp Đức.
ĐỐ VỀ QUỐC GIA #4
CÂU ĐẦU: Helo ae, hôm tui sẽ đố còn đố cái gì tự đi mà biết
câu hỏi: quốc gia này từng là đế quốc hùng mạnh ở thế kỉ 13-14, không giáp biển giáp vói nga,trung hoa.Nằm ở khu vực bắc á thuộc châu á
là nước nào?