Phân tích và ý nghĩa của 5 câu ca dao dân ca địa phương Đồng Nai
Đồng Nai nước ngọt gió hiền
Biên Hùng muôn thuở tiếng truyền an vui
giải thích ý nghĩa câu ca dao trên và bptt trong câu ca dao trên
ý nghĩa của câu ca dao: Nồi đồng thì úp vung đồng
Con Gái xứ Bắc lấy chồng Đồng Nai
Những câu ca dao, dân ca, tục ngữ lưu hành ở địa phương (nói về sản vật, di tích, thắng cảnh, danh nhân, sự tích, từ ngữ địa phương, ...)mik ở đức trọng- lâm đồng
mai mik phải nộp rùi
- Nhất cao là núi Ba Vì
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
- Sông Lô một dải trong ngần
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên
- Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu
Nam Chân, bắc Dũng, đông Kỳ, tây Lạc
- Nước Thanh Lanh, ma kẽm Dõm
Nước Thanh Lanh, ma Ngọc Bội
-Mang Cả trông sang
Mang Con thài mại
Đứng lại mà trông
Chín đời quận công
Mười đời tiến sĩ
Quê tôi mang tiếng quê nghèo
Mà trăm chuyện kể ra đều bằng thơ
Chuyện sen theo mẹ lên chùa
Dân làng đi cấy suốt mùa sáng trăng
Con gà biết nhớ lá chanh
Chuồn chuồn cao thấp mà thành nắng mưa
Yêu nhau mấy núi cũng vừa
Miếng gừng hạt muối thành bùa thủy chung
Mẹ tôi quen ruộng quen đồng
Ru con là nói thật lòng ước mơ…
Lời ru từ buổi ấu thơ
Che con hết cả nắng mưa, đói nghèo
Tôi chìm trong suối ca dao
Từng dòng lục bát giọt nào cũng thơm
Bây giờ dẫu mẹ chẳng còn
Tôi tìm bóng mẹ trong hồn ca dao…
-Rau một lá, cá một khúc.
-Nhà đổ còn xà, cậu già còn cháu.
-Cha thế nào, chú hao hao thế ấy.
-Nói không nghe, đe không được.
-Đất một trái chung, chim cùng tổ đẻ, con người một mẹ, một cha.
-Ruột một bụng, tóc một đầu, lươn một bàu, diều một gió..
-Người đau bệnh nằm liệt, công việc người khỏe lo, thói đời ăn no tức bụng.
-Ruộng nhuyễn gạo thơm ngon, ruộng sinh bùn thuần thục, trâu nuôi lâu béo tốt, người
Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ nonNàng về nuôi cái cùng conĐể anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Bắc Cạn có suối đãi vàngCó hồ Ba Bể có nàng áo xanh.
Ai lên làng Quỷnh hái chè,Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi!
Muốn ăn cơm trắng cá mè,Thì lên làng Quỷnh hái chè với anh.Muốn ăn cơm trắng cá rô,Thì lên làng Quỷnh quẩy bồ cho anh!
Hà Nội ba mươi sáu phố phườngHàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.Từ ngày ta phải lòng mìnhBác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.Làm quen chẳng được nên quenLàm bạn mất bạn ai đền công cho
Đường vô xứ Nghệ quanh quanhĐường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng
Ai về Hà nội ngược nước Hồng HàBuồm giong ba ngọn vui đà nên vuiĐường về xứ Lạng mù xa..Có về Hà nội với ta thì vềTrên trời có đám mây xanh,Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng,
Ai đi trẩy hội chùa HươngLàm ơn gặp khách thập phương hỏi giùmMớ rau sắng, quả mơ nonMơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
Ngày xuân cái én xôn xaoCon công cái bán ra vào chùa Hương.Chim đón lối, vượn đưa đườngNam mô đức Phật bốn phương chùa này.
Sản vậtRa đi anh nhớ Nghệ An,Nhớ Thanh Chương ngon nhút, nhớ Nam đàn thơm tương.
"Yến sào Vinh SơnCửu khổng cửa RònNam sâm Bố TrạchCua gạch Quảng KhêSò nghêu quán Hàn...Rượu dâu Thuận Lý..."
Ước gì anh lấy được nàng,Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.Xây dọc rồi lại xây ngang,Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.Đừng thủy thì tiện thuyền bèĐường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang
*Tìm những câu ca dao, dân ca, tục ngữ theo mô hình dưới đây:
A - Những câu ca dao, dân ca, tục ngữ lưu hành ở địa phương Hưng Yên
1.Ca dao (2 câu)
2.Tục ngữ (1 câu trở lên)
3.Dân ca (3 câu)
B - Những câu ca dao, dân ca, tục ngữ viết về địa phương Hưng Yên
1.Ca dao (3 câu)
2.Tục ngữ (1 câu trở lên)
3.Dân ca (3 câu)
Tham khảo nhé em:
Xin chào đồng hương Hưng Yên:
1. Con cò mà đậu cành tre
Ông tây bắn súng cò què một chân
Sáng mai mẹ cõng chợ Bần
Mọi người mới hỏi sao chân cò què
Cò rằng cò đậu ngọn tre
Ông tây bắn súng cò què một chân
2.Tân Dân một tháng ba mươi sáu trận chống càn
Xác thù chất đống máu loang đầy đồng
3. Mấy năm Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng dính nồi, trẻ khóc như ri
4. Đống xương Thiết Trụ, vũng máu Nghi Xuyên
Cây đa Đông Tảo còn in hận thù
5. Ai vào mảnh đất Đường Hào
Có cụ Tán Thuật đào hào đánh tây
6. Chớ tham đồng bạc con cò
Bở cha ***** đi phò thằng tây
Chuyện đâu có chuyện lạ đời Quan đi theo giặc bắt người lành ngay Ngàn năm nhớ mãi nhục này Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù Bốt Bần ngày thánhg âm u
7.Lính vua, lính chúa, lính làng
Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua bắt lính đàn bà
Để em đi đỡ anh vài bốn năm Lên Bần, xuống Thứa, chợ Dầm Quanh đi quanh lại ba năm em về.
8.Thằng Tây súng ngắn, súng dài Dân tao:
Vồ, gậy, dao bài, câu liêm.
Trường kỳ tao đánh ngày đêm
Đánh cho mày phải đảo điên tơi bời
Văn Giang chẳng phải đất chơi.
Văn Giang là huyện phía bắc tỉnh Hưng Yên
các câu ca dao tục ngữ có sử dụng từ địa phương tỉnh nghệ an và ý nghĩa của chúng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi
Thương em anh cũng muốn vô ,
Sợ truông nhà Hồ , sợ phá Tam Giang
Chình ình như cái đình La Qua
- Về đi sống với ruộng vườn,
Vòng khoai, nương sắn, xanh rờn chè tươi.
Tội gì theo giặc, anh ơi !
Ngàn năm bia miệng, người đời cười chê.
- Cho dù cha mắng mẹ treo
Em không bỏ hội chùa keo hôm rằm.
- Ngại gì một nỗi xa đàng
Bác mẹ chưa biết họ hàng chưa hay.
Anh có lòng thương chờ đợi ít ngày,
Được phép mẹ thầy, anh hãy vãng lai.
Trước răng sao rứa không sai.
- Em về thưa mẹ cùng thầy,
Cho anh cưới tháng này anh ra.
Anh về thưa mẹ cùng cha,
Bắt lợn sang cưới, bắt gà sang cheo.
- Ân cha nghĩa mẹ chưa đền,
Bậu mong ôm gối cuốn mền theo ai ?
- Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.
Một thuyền một lái chẳng xong
Một chĩnh đôi gáo còn nong tay nào.
-Cơm ăn một bát sao no
Ruộng cày một vụ sao cho đành lòng
Sâu cấy lúa, cạn gieo bông
Chẳng ươm được đỗ thì trồng ngô khoai.
- Nhà em có vại cà đầy
Có ao rau muống có đầy chĩnh tương.
- Một bên nhà rộng áo dài
Một bên cày cấy lấy khoai đổ bồ
Hai bên em chuộng bên mô ?
Hai bên em chuộng bên bồ khoai lang.
- Lợn bột thì thịt ăn ngon
Lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời.
- Ai lên rừng cho em xin miếng gỗ trắc
Gửi ra ngoài Bắc, khắc bốn câu thơ :
Câu thương, câu nhớ, câu đợi
Ngoài nớ lo kiến thiết thì trong ni cũng hàng giờ lo đấu tranh.
-Giêng hai cắn móng tay không ra máu
Nhà con bốn người chạy ba trăm sáu đâu ra
Phen ni hết ruộng hết nhà
“ Cần lao”. “ nhân vị”chỉ là giết dân.
( cần lao, nhân vị: Tên “đảng” phản động của Ngô Đình Diệm, cũng là khẩu hiệu lừa bịp của chúng )
- Ru em em théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.
(théc : ngủ; muồi : say )
- Đi vay đi dạm được tám quan hai
Xuống dưới chợ mai
Mua một cái đó
Trời mưa trời gió
Vác đó đi đơm
Chạy vô ăn cơm
Chạy ra mất đó
Kể từ ngày ai lấy đó, đó ơi
Răng đó không phân qua nói lại đôi lời đây hay ?
Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, có khi là một sự phê phán.
- Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn.
Về hình thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh.
Còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh.
Có thể nói một cách hình ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là anh, từ đơn độc là em.
Vì thành ngữ qua thời gian đã được tập hợp thành cụm. VD: "Áo rách, quần manh",
"Ăn trắng, mặc trơn", "Ăn trên, ngồi trốc", "Dốt đặc cán mai", "Cá bể, chim ngàn" "Bụng đói, cật rét"....
đều là thành ngữ. Còn "Chó cắn áo rách", "Bệnh quỷ thuốc tiên", "Người chửa, cửa mả"... đều là tục ngữ.
Hầu hết những câu thành ngữ, tục ngữ đầu do nhân dân sáng tác, nhưng cũng có những câu rút ra từ các thi phẩm phổ biến, hoặc rút từ ca dao, dân ca ra. Có người nói tục ngữ là ngạn ngữ (nghĩa là lời nói đã lưu hành từ xưa) (Chữ ngạn có nghĩa là lời nói của người xưa).
Như vậy, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở những kinh nghiệm về sinh hoạt, sản xuất... Nó là những câu đúc kết những nhận xét đã được nhiều người thừa nhận, để hướng dẫn con người ta trong sự nhìn nhận mọi khía cạnh của cuộc đời. Tục ngữ là những câu thông tục, thiên về diễn ý, đúc kết một số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lý và công lý để nhận xét về con người và xã hội, hay dựa theo trí thức để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ:
"Chồng yêu, xỏ chân lỗ mũi", thì "xỏ chân lỗ mũi" là thành ngữ.
2. Ca dao và dân ca
- Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và dân ca không rõ.
Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm. Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca dao.
Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng.
Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương, còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào, thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi
"Đồng đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"
Hay:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga.
Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được.
Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh.
Cũng như tục ngữ, ca dao - dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ - ca dao - dân ca):
tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh, tính truyền miệng, tính tập thể... thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất
B. Thời kỳ xuất hiện:
So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như "Dô ta", như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.
Xét nội dung những câu "Năm cha, ba mẹ", hay "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông", "Con dại, cái mang", "con mống, sống mang".. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ...
Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.
C. Nội dung và hình thức của tục ngữ - ca dao - dân ca:
1. Nội dung của tục ngữ:
Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả.
Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.
VD:
Quá mù ra mưa
Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Cái sảy nảy cái ung
Cõng rắn cắn gà nhà
...
2. Hình thức của tục ngữ
Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn
Làm phúc phải tội
Gà què ăn quẩn cối xay
Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
...
Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối
No nên bụt, đói nên ma
Bút sa, gà chết
Có tật giật mình
Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ
May tay hơn hay thuốc
Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con
Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm
Hoặc thể lục bát
Cá tươi thì xem lấy mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai
Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người...nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.
3. Nội dung của ca dao
Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào...thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.
Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.
Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình...
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương
Tuyệt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ...
Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội.
Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.
4. Hình thức nghệ thuật của ca dao
Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú.
Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao.
Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc.
Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu
Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:
Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền
Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú: Là trình bày, diễn tả...
Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...
Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:
Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em
Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa
....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
[center]Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành
MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH
1. Hát giặm
Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu....xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm.
Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến.
Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời:
vd:
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại
hay:
Thấy những lời kêu trách
Nghe những lời kêu trách
Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài.
Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt.
Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi
VD:
Trai:
Tiết thanh nhàn thong thả
Muốn thăm hỏi vài câu
Cuốc thánh thót kêu sầu
Gió phảng phất mùa sâu
Nhớ trong sách đã lâu:
Chuyện "Tư mã phượng cầu"
Thương thì mũi tìm trâu
Trâu đâu tìm chạc mũi
Gái:
Trời mở rộng phong quang
Giã ơn trời mở rộng phong quang
Em đánh tiếng đua sang
Đêm tàn canh vò võ
Tay em cầm con bấc đỏ
Mong bỏ đĩa dầu đầy
Mời bạn ở lại đây
Đôi ta giở lời rày
Tình đó với nghĩa đây
Trai:
Giống như đọi nác đầy
Bưng nhẩn nhẩn trên tay
Không khuy sơ một hột
Gió nỏ triềng một hột
Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lứa đôi
Ngãi đã quyết thề bồi
Nhất ngôn nói hẳn lời
Đừng bốn chốn ba nơi
Đừng trăn gió chào mời
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăn nhiều đèn rạng rỡ
Gái:
Em đã có chồng rồi
Em đã có lứa rồi
Vung úp đã vừa nồi
Đũa ghép đã thành đôi
Bạn đừng có ỡm ờ với tôi!
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại
Trai:
Têm một quả trầu không
Bỏ vô hộp con rồng
Đi băng nội băng đồng
Qua năm bảy khúc sông
Qua chín mười đỗi đồng
Nghe tin em đã có chồng
Anh quăng lắc vô bụi
Bạn gạt tùa vô bụi.
Anh thương em một tháng hai kỳ
Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày
Năm rộn mà chầy
Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ)
Xuân qua rồi hè /đến
Thu đã muộn, đông rồi
Nhớ bạn cũ chưa nguôi,
Sang lập xuân vũ thuỷ
Đêm em nằm em nghĩ
Nghĩ kinh trập, xuân phân,
Lòng tưởng sự ái ân
Sang thanh minh, cốc vũ
Đêm dêm nằm nỏ ngủ
Nhớ bạn mãi thường thường
Tiết lập hạ nhớ thương
Bước sang tuần tiểu mãn
Trông ra ngoài chán chán
Tiết mang hiện lại gần
Người đập đất, gánh phân
Để mùa màng gặt hái
Anh thương em mãi mãi
Sang hạ chí tiết hè
Em nghe tiếng sầu ve
Em buồn trong gia sự
Bạn buồn trong gia sự
Tiết tiểu thử, đại thử
Trời nắng sốt lắm thay!
Ra ngồi tựa cột cây
Anh với em than thở
Bạn với mình than thở
Tiết lập thu, xử thử
Ai diều sáo mặc ai
Vàng lác đác giếng tây
Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ)
Nhớ mãi người bạn cộ
Vừa đến tiết bạch lộ
Bầy chim trắng bay sang
Cây heo hắt lá vàng
Sang thu phân hàn lộ.
Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy)
Tiết sương giáng lại kề
Trông bạn cũ ta về
Sang lập đông giá rét
Tiết tiểu tuyết, đại tuyết
Trời giá rét lắm thay
Sang đông chí cấy cày
Dạ bồi hồi nhớ bạn
Tiết tiểu hàn chưa dạn
Đã bước sang đại hàn
Dạ tưởng nhớ người ngoan
Vừa năm cùng tháng tận
Vừa cuối mùa cuối tận.
Phận lại ngồi trách phận
Phận nỏ giám trách phận
Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp
6. Hát ví Nghệ Tĩnh
Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn.... Trong những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả.
1. Hát phường vải
Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng.
Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn.
Giai đoạn 1:
Hát dạo
Bấy lâu thức nhắp mơ màng
Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng
Bấy lâu nghe hết tiếng nàng
Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng
Nghe tin anh cũng vội mừng
Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang
Bấy lâu anh mức chi nhà
Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu
Đồn rằng cá uốn thân vây
Đồn em hay hát, hát hay anh tìm
Chốn này vui vẻ, tưng bừng
Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi
Đêm khuya trời tạnh sương im
Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần.
Dừng xa, khoan kéo, ơi phường!
Hình như có khách viễn phương tới nhà
Đi qua nghe tiếng em reo,
Nghe xa em kéo, muốn đeo em về.
Đi ngang trước cửa nàng Kiều,
Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu
Đi ngang thấy búp hoa đa`o
Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai
Đồn đây là chốn Đao` Nguyên
Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi
Lạ lùng anh mới tới đây,
Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng
Đến đây vàng cũng như son
Ai ai thời cũng như con một nhà
Hát mừng, hát chào
Khi nháy mắt, khi nhện sa
Khi chuột rích trong nhà
Khi khách kêu ngoài ngõ
Tay em đưa go đủng đỉnh
Tay em chìa khoá động đào
Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen
Mừng rằng bạn đến chơi nhà
Cam lòng thục nữ gọi là trao tay
Hát hỏi
Em có chồng rồi, em nói rằng chưa
Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh
Em chưa có chồng, em mới đến đây
Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà
Giai đoạn 2:
Hát đố và hát đối
Anh về chẻ lạt bó tro
Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng.
Em về đục núi lòn qua,
Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng
Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc,
Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây
Hai ta tình nặng nghĩa dày,
Đối ra đáp được, lúc này tính sao?
- Đến đây hỏi khác tương phùng
Chim chi một cánh bay cùng nước non?
-Tương phùng nhắn với tương tri,
Lá buồm một cánh bay đi khắp trời
- Lá gì không nhánh, không ngành?
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?
- Lá thư không nhánh, không ngành,
Lá thư chỉ có tay mình trao tay.
- Nghe tin anh hoc có tài
Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng?
- Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra
Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày!
- Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng
Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi?
- Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong
Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa?
Nghe anh bôn tẩu bấy lâu
Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh?
- Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu
Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi
Cầu danh, cầu lợi, cầu tài
Cầu cho đây đó làm hai giao hoà
Nhớ em nhất nhật một ngày
Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông
- Chờ em nửa tháng ni rồi
Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng
- Nghe tin anh giỏi, anh tài
Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng?
- Thiên thai là của nàng Kiều
Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra
lên mạng mà tra vào trang này
Ca dao tục ngữ về phú quý | Ca dao Mẹ
cadao.me › the › phu-quy
Giúp mình câu hỏi này nha: Sưu tầm những câu ca dao dân ca tục ngữ lưu hành ở địa phương (mang tên riêng của địa phương nói về sản vật di tích thắng cảnh danh nhân sự tích từ ngữ địa phương...)Mình ở Bắc Ninh😊😊😊
Bài 6: Vì sao khi nói đến tình nghĩa của con người, ca dao lại dùng hình ảnh muối - gừng? Phân tích ý nghĩa biểu tượng và giá trị biểu cảm mà hình ảnh này trong bài ca dao và tìm thêm một số câu ca dao khác có sử dụng hình ảnh muối gừng để minh họa.
- Cặp hình ảnh ẩn dụ quen thuộc trong ca dao truyền thống gừng cay- muối mặn
+ Được xây dựng từ hình ảnh thực chỉ gia vị trong bữa ăn hằng ngày.
+ Hình ảnh nghệ thuật có tính sóng đôi, biểu trưng cho hương vị của tình người trong cuộc sống- tình nghĩa thủy chung gắn bó son sắt
+ Bài ca dao nói về tình nghĩa thủy chung, hướng nhiều tới tình nghĩa vợ chồng son sắt, thủy chung
- Ba năm, chín tháng: sự bền lâu, vĩnh cửu
Ba vạn, sáu ngàn ngày là 100 năm: trọn kiếp, suốt đời, vĩnh hằng
→ Bài ca dao là câu hát thủy chung, nghĩa tình hướng tới tình cảm vợ chồng mặn nồng, son sắt
Một số câu ca dao có biểu tượng muối gừng:
Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Bài ca dao, dân ca nhũng câu hát về tình cảm gia đình: Em hãy chọn 1câu ca dao và phân tích cái hay cái đẹp của câu ca dao đó
Tham khảo:
Trong nền văn học dân gian Việt Nam, các tác phẩm ca dao dân ca là một trong những thể loại độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Đã từ bao đời nay ca dao dân ca luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của nhân dân lao động, thể hiện rõ nét những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, đời sống lao động của nhân dân. Và đặc biệt hơn cả, dù chỉ là những câu hát, câu nói truyền miệng nhưng nó lại mang theo mình những giá trị nhân văn, đạo đức sâu sắc, góp phần giáo dục, răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Đặc biệt khi là nói về tình cảm gia đình có rất nhiều bài ca dao hay, ví như một bài ca dao nói về ơn nghĩa cha mẹ:
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi"
Với thể lục bát quen thuộc bài ca dao trên mang âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng tựa như lời ru ngọt ngào của người mẹ trẻ, người mẹ thủ thỉ với đứa con những lời thật ngọt ngào, đó chính là câu ca dao xưa thật là xưa, là lời cha ông bao đời truyền lại. Mẹ nhẹ nhàng ru con vào giấc ngủ, cũng nâng bước chân con chập chững vào đời bằng những bài học đạo đức thật sâu sắc và ý nghĩa. Thứ đầu tiên mẹ dạy con chẳng phải là những vần ê, a mà là đạo lý làm người, nghe thật kỳ lạ phải không, thế nhưng ai bảo con không hiểu, con vốn đã học từ trong bụng mẹ rồi ấy.
Trong lời mẹ hát, con biết được rằng cha yêu thương con cũng chẳng kém gì mẹ, "Công cha như núi ngất trời", mẹ sinh con ra, cha ngày vất vả cực nhọc lao động để nuôi con khôn lớn, một đời dài như vậy cha dành phân nửa cho con, tình cảm ấy dẫu có là núi cao cũng chưa hẳn sánh bằng. Cũng như cha, mẹ mang nặng đẻ đau con chín tháng mười ngày, sinh con ra trong khó nhọc, chăm bẵm con từng ngày, có lẽ trên đời này chẳng còn một ai thương con hơn mẹ nữa. Sự hy sinh, tấm lòng cao cả của mẹ chắc phải lấy "nước ngoài biển Đông" mới có thể đong đếm hết được. "Cù lao chín chữ" tức là nói về công lao của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái thành người, vất vả khốn khổ nhiều bề nhiều bận. Người ta ví trồng người cũng như trồng cây vậy, nhưng nếu như trồng một cái cây chỉ cần chú ý "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống", thì nuôi con còn vất vả cực nhọc hơn gấp bội, bởi đó là một quá trình dài đằng đẵng có khi là đi hết cả cuộc đời, lòng cha mẹ vẫn không thôi bận tâm về con cái. Nếu để liệt kê "cù lao chín chữ", thì nuôi con bắt đầu bằng chữ sinh, sau là chữ cúc, nghĩa là dạy con tập đi, tập đứng, rồi phủ, vuốt ve, làm cho con cảm nhận được tình yêu thương của cha mẹ, lại súc là cho con bú nguồn sữa ngọt ngào, cho con ăn những thứ tốt nhất. Sau đó là trưởng, nuôi lớn con, rồi lại dục, dạy dỗ cho con nên người, trong suốt quá trình bậc cha mẹ lúc nào cũng phải cố, đoái hoài, trông nom kỹ lưỡng, sợ con có bề gì. Con đã có suy nghĩ, nhận thức lại vẫn phải phục, theo dõi tính tình, để uốn nắn cho kịp, rồi vẫn phải phúc, che chở, đỡ đần khi con có chuyện. Nói tóm lại rằng phận làm cha mẹ, đặc biệt là trong văn hóa phương Đông, dường như đó là nỗi vất vả cả đời, nhưng cũng là hạnh phúc cả đời của bậc làm cha làm mẹ, đối với cha mẹ con cái là món quà, là điều tuyệt vời nhất thế gian, trong mắt họ con cái luôn bé bỏng, cần được chở che, chăm sóc.
Thế nên tình cha, tình mẹ vốn bao la biển trời, phận là con cái, lớn lên dưới vòng tay yêu thương của cha mẹ, dẫu gia cảnh bần hàn hay sung túc thì mỗi một con người vẫn phải ghi lòng tạc dạ công ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Phận làm con phải đặt chữ hiếu làm đầu, phải hết sức tôn kính, yêu thương cha mẹ của mình, đừng dại dột làm kẻ bất hiếu, đó là những gì mà bài ca dao muốn truyền đạt cho chúng ta.
Bài ca dao tuy chỉ vỏn vẹn 4 câu, nhưng chứa đựng những nội dung vô cùng sâu sắc về tình cảm gia đình, răn dạy mỗi con người cần phải ghi nhớ công ơn cha mẹ, đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Bài ca dao sử dụng thể lục bát truyền thống, âm điệu nhẹ nhàng như lời ru của mẹ, dùng các so sánh liên tưởng đặc sắc, có tầm vóc to lớn nhằm đề cao công ơn của cha mẹ.