Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Rose Blink
Xem chi tiết
Nguyễn Ly
Xem chi tiết
✟şin❖
1 tháng 4 2020 lúc 16:48

Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng nơi sông bắt nguồn thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua Trung Quốc, Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia và đổ ra Biển Đông ở Việt Nam.

Tính theo độ dài đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng nước đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 tỉ m³). Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s. Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy hội sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của Encyclopaedia Britannica 2004). Sông này xuất phát từ vùng núi cao tỉnh Thanh Hải, băng qua Tây Tạng theo suốt chiều dài tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt Nam. Các quốc gia kể trên (trừ Trung Quốc) nằm trong Ủy hội sông Mê Kông.

Giao thông bằng đường thủy trên sông Mê Kông gặp nhiều khó khăn do dòng chảy bị thay đổi nhiều theo mùa, các đoạn chảy xiết và các thác nước cao. So với tiềm năng to lớn nếu được khai thác đúng mức, hiện nay, chỉ một phần nhỏ của sông được dùng trong việc dẫn thủy nhập điền và tạo năng lực thủy điện. Tuy nhiên lưu lượng và nhịp độ nước lũ ban phát nhiều lợi ích: biên độ dao động cao (sai biệt khoảng 30 lần giữa mùa hạn và mùa nước lũ) rất thuận lợi cho lối canh tác ruộng lúa ngập nước cho nhiều vùng rộng lớn.

Đặc điểm thủy năng nổi bật của sông Mê Kông là vai trò điều lượng dòng nước bởi hồ Tonlé Sap - hồ thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á - người Việt thường gọi là "Biển Hồ" [1].

Mục lục 1Dòng chảy 2Các phụ lưu 3Lịch sử 4Các vấn đề 5Các động vật quý hiếm 6Cầu qua sông 7Chỉ dẫn 8Tham khảo 9Xem thêm 10Liên kết ngoài Dòng chảy[sửa | sửa mã nguồn]

Người Tây Tạng cho rằng thượng nguồn sông Mê Kông chia ra hai nhánh: nhánh tây bắc (Dzanak chu) và nhánh bắc (Dzakar chu). Nhánh tây bắc được biết đến nhiều hơn, vị thế gần đèo Lungmug với chiều dài 87,75 km. Nhánh bắc chảy xuống từ rặng núi Guosongmucha. Nhánh này, từ độ cao 5224 m - kinh tuyến đông 94°41'44", vĩ tuyến bắc 33°42'41"[2], gồm hai nhánh phụ có chiều dài 91,12 km và 89,76 km[3].

Đầu nguồn của dòng sông đến nay đã được xác định rõ qua những cuộc thám hiểm gần đây. Năm 1994, một phái đoàn Trung Quốc và Nhật Bản đã đến nguồn phía Bắc cùng lúc với phái đoàn Pháp, do M. Peissel dẫn đầu, đến nguồn mạch phía tây với cùng một mục đích: chứng minh nguồn mạch chính của sông Mê Kông. Sau đó, những cuộc thám hiểm kế tiếp cho đến năm 1999 dưới sự hợp tác các nước Trung Hoa, Mỹ và Nhật Bản đã chính thức xác minh nguồn mạch sông Mekong thuộc nhánh bắc[4]. Các con số về độ dài của sông dao động trong khoảng 4.200 km[5] đến 4.850 km[1].

Ngày nay vùng khởi nguồn sông Mekong, cùng với sông Dương Tử và sông Salween (Nộ Giang) hợp thành khu bảo tồn Tam Giang Tịnh Lưu [6] tại tỉnh Vân Nam, Trùng Quốc.

Gần một nửa chiều dài con sông này chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, ở đó đoạn đầu nguồn nó được gọi là Dza Chu trong tiếng Tây Tạng tức Trát Khúc (扎曲; bính âm: Zā Qū), và nói chung được gọi là Lan Thương Giang trong tiếng Hán (瀾滄江; bính âm: Láncāng Jiāng; Wade-Giles: Lan-ts'ang Chiang), có nghĩa là "con sông cuộn sóng". Trát Khúc hợp lưu với một nhánh khác tên là Ngang Khúc (橫曲; bính âm: Áng Qū) ở gần Xương Đô (昌都; bính âm: Chāngdū) tạo ra Lan Thương Giang. Phần lớn đoạn sông này có các hẻm núi sâu, ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, con sông chỉ còn ở độ cao oảng 500 m so với mực nước biển.

Sau đó, đoạn sông Mê Kông dài khoảng 200 km tạo thành biên giới giữa hai nước Myanma và Lào. Tại điểm cuối của biên giới, con sông này hợp lưu với sông Ruak tại Tam giác vàng. Điểm này cũng là điểm phân chia phần Thượng và phần Hạ của Mê Kông.

Sông Mê Kông sau đó tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan, trước khi dòng chảy chạy vào đất Lào ở tỉnh Bokeo. Nó được người Lào và người Thái gọi với tên Mènam Khong ( là mẹ, nam là sông, tức "sông mẹ", tựa như "sông cái" theo thói quen gọi sông lớn của người Việt cổ), và là cội nguồn của tên quốc tế "Mekong" hiện nay khi bỏ đi từ "nam". Sử Việt Nam thì gọi là Sông Khung.

Khoảng sông Mê Kông ở Lào đặc trưng bởi các hẻm núi sâu, các dòng chảy xiết và những vũng nước nông khoảng nửa mét vào mùa khô. Sau khi tiếp nhận dòng Nam Ou từ Phongsaly chảy đến ở Pak Ou phía trên Luang Prabang dòng sông mở rộng ra, ở đó nó có thể rộng tới 4 km và sâu tới 100 mét, mặc dù dòng chảy của nó vẫn rất trái ngược nhau.

Con sông này sau đó lại tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan trong đoạn chảy qua Viêng Chăn đến tỉnh Champasack. Từ phía đông thì có dòng Se Bangfai đổ vào sông Mekong ở ranh giới tỉnh Savannakhet với Khammouan, và dòng Se Banghiang đổ vào ở Muang Songkhone, Savannakhet. Từ phía Thái Lan thì có phụ lưu hữu ngạn là Mènam Mun dài 750 km, đổ vào tại Khong Chiam thuộc Ubon Ratchathani, Thái Lan.

Sau đó lại là một đoạn ngắn chảy trên đất Lào, với một phụ lưu bờ trái là dòng Xe Don đổ vào ở Pak Se. Ở cực nam Lào tại tỉnh Champasack, nó bao gồm cả khu vực Si Phan Don (bốn ngàn đảo) phía trên thác Khone gần biên giới Campuchia. Thác nước này dài 15 km, cao 18 m khá hùng vĩ và gần như không thể vượt qua đối với giao thông bằng đường thủy.

Tại Campuchia, con sông này có tên là sông Mékôngk (theo tiếng thiểu số gốc Lào ở đây) hay Tông-lê Thơm (sông lớn, theo tiếng Khmer). Tại khu vực tỉnh lỵ Stung Treng là nơi dòng Tonlé San đổ vào. Tonlé San là hợp lưu của các dòng Se Kong từ Nam Lào, và sông Sê San (Tonlé San) và sông Serepok (Tonlé Srepok) bắt nguồn từ Tây Nguyên ở Việt Nam chảy đến.

Vùng nước chảy xiết (ghềnh) Sambor phía trên Kratie là cản trở giao thông cuối cùng.

Ở phía trên Phnom Penh nó hợp lưu với Tonlé Sap, con sông nhánh chính của nó ở Campuchia. Vào mùa lũ, nước chảy ngược từ sông Mê Kông vào Tonlé Sap.

Bắt đầu từ Phnôm Pênh, nó chia thành hai nhánh: bên phải là sông Ba Thắc (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220–250 km mỗi sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái.

Tập hợp của cả chín nhánh sông lớn tại Việt Nam được gọi chung là sông Cửu Long.

Sông Mekong nhìn từ Nakhon Phanom (Thái Lan) sang Thakhek (Lào), 2010.

Cảnh sông Mê Kông trước hoàng hôn tại biên giới Lào-Thái Lan.

Thác Khone, Nam Lào.

Các phụ lưu[sửa | sửa mã nguồn] Sông Ruak bắt nguồn từ bang Shan, Myanmar, chảy đến vùng Tam giác vàng, có đoạn cửa sông là biên giới Myanmar - Thái Lan. Nam Ou bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc, chảy dọc tỉnh Phongsaly, đổ vào sông Mê Kông tại Muang Pak Ou 20°3′34″B 102°12′59″Đ, phía trên Luang Prabang chừng 15 km. Có một nhánh nhỏ thượng lưu là Nậm Nứa, bắt nguồn từ xã Nứa Ngam tỉnh Điện Biên, Việt Nam, khi sang đất Lào nó có tên Nam Neua, đến Muang Khua (Mường Khoa) đổ vào Nam Ou. Ở thung lũng Mường Thanh có nhánh nhỏ Nậm Rốm đổ vào Nậm Nứa ở bản Pa Nậm [a]. Nam Ngum (Nậm Ngừm) dài 354 km, bắt nguồn từ vùng núi phía bắc tỉnh Xiengkhuang, chảy về phương nam qua tỉnh Viêng Chăn, đổ vào Mê Kông tại phía nam thành phố Vientiane 18°11′25″B 103°3′19″Đ. Nam Theun (Nậm Thơn), đoạn cuối được gọi là Nam Kading, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở biên giới Lào - Việt ở tỉnh Khammouan (giáp với huyện Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam). Dòng chảy uốn lượn, đổ vào Mê Kông tại muang Pak Kading tỉnh Bolikhamxai 18°20′34″B 103°59′39″Đ. Se Bangfai bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở biên giới Lào - Việt, tại muang Bualapha tỉnh Khammouan, (giáp với xã Lâm Thủy huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình, Việt Nam), đổ vào Mekong ở ranh giới tỉnh Savannakhet và Khammouan 16°56′46″B 104°44′41″Đ. Se Banghiang bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở xã Hướng Lập huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị, Việt Nam, chảy qua biên giới Lào - Việt ở tỉnh Savannakhet, đổ vào Mekong ở gần thành phố Savannakhet 16°4′30″B 105°14′24″Đ. Một phụ lưu của Se Banghiang là sông Sê Pôn, bắt nguồn từ Lao Bảo ở Việt Nam. Mènam Mun dài 750 km, đổ vào Mekong tại Khong Chiam thuộc Ubon Ratchathani, Thái Lan. Se Don là phụ lưu chảy ở tỉnh Champasack đổ vào Mekong tại Pak Se. Se Kong là phụ lưu cấp 2, ở đông nam Lào. Se Kong bắt nguồn từ phía tây huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam với tên Xê Asap. Se Kong chảy dọc tỉnh Sekong và Attapeu của Lào, đến biên giới phía nam. Ở đây còn có một nhánh là Se Kaman bắt nguồn là dòng Đăk P'Lô ở xã Đăk P'Lô huyện Đăk Glei tỉnh Kon Tum bên Việt Nam. Ở bên Lào Se Kaman chảy qua huyện biên giới Muang Dak Cheung đến muang Xaysetha, Attapeu thì nhập vào Se Kong. Sang Campuchia thì Se Kong có tên Tonlé Kong, hợp lưu với Tonlé San ở Hang Savat gần tỉnh lỵ Stung Treng thành một đoạn ngắn 8 km rồi đổ vào sông Mekong. Hai phụ lưu cấp 2 quan trọng khác bắt nguồn từ Tây Nguyên của Việt Nam là sông Sê San (Tonlé San) và sông Serepok (Tonlé Srepok), hợp lưu với nhau trên lãnh thổ Campuchia tại khu vực Stung Treng, sau đó hợp với Se Kong rồi đổ vào Mekong. Tonlé Sap là sông có lưu vực rộng chiếm phần lớn lãnh thổ Campuchia ở Trung và Tây Bắc, cùng với Biển Hồ, đổ vào Mekong ở phía trên Phnom Penh. Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Sự khó khăn về giao thông thủy của con sông này làm chia cắt con người sống hai bên bờ hơn là liên kết họ. Nền văn minh được biết sớm nhất là nền văn hóa Mã Lai, Ấn Độ hóa hồi thế kỷ 1, của Vương quốc Phù Nam, trong lưu vực sông Mê Kông. Sự khai quật ở Óc Eo, gần Rạch Giá ngày nay, đã tìm thấy những đồng tiền khác xa với Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam được nối tiếp bởi quốc gia Khmer Chân Lạp (Chenla) cho đến thế kỷ 5. Đế chế Khmer Angkor là quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cuối cùng trong khu vực. Sau khi quốc gia này bị tiêu diệt sông Mê Kông đã là đường biên giới của các quốc gia đối đầu nhau như Xiêm và Việt Nam, với Lào và Campuchia nằm trong tầm ảnh hưởng của họ.

Người châu Âu đầu tiên thám hiểm sông Mê Kông là người Bồ Đào Nha có tên là Antonio de Faria vào năm 1540; bản đồ của người châu Âu năm 1563 có vẽ lại con sông này, mặc dù chỉ có một đoạn nhỏ ở khu vực đồng bằng châu thổ. Sự quan tâm của người châu Âu không có chung mục đích: những người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha chỉ thực hiện những cuộc thám hiểm nhằm mục đích truyền giáo và buôn bán, trong khi đó người Hà Lan Gerrit van Wuysthoff đã dẫn đầu một cuộc thám hiểm đến tận Viêng Chăn (1641-1642).

Người Pháp có sự quan tâm đặc biệt tới khu vực này vào giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm đóng Sài Gòn năm 1861 và thiết lập sự bảo hộ Campuchia năm 1863.

Cuộc thám hiểm có hệ thống đầu tiên là cuộc thám hiểm sông Mekong 1866-1868 do người Pháp là Ernest Doudart de Lagrée và Francis Garnier thực hiện. Họ đã phát hiện ra rằng Mekong có quá nhiều thác nước và những chỗ chảy xiết, không có lợi cho giao thông đường thủy.

Từ năm 1893, người Pháp mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với con sông này tới tận Lào bằng việc thiết lập ra Liên bang Đông Dương trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Điều này đã chấm dứt sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc và người Mỹ can thiệp vào khu vực.

Sau Chiến tranh Việt Nam, những bất đồng giữa Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc khi đó đã hạn chế sự hợp tác của các bên trong việc khai thác tiềm năng của dòng sông này. Tuy nhiên, hiện nay các bên đã xích lại gần nhau hơn trong vấn đề này.

Sông Serepôk, Bản Đôn, Đắk Lắk.

Cần Thơ.

Vĩnh Long.

Đồng bằng sông Cửu Long.

Mỹ Tho.

Mỹ Tho.

Lò gạch bên Sông Hậu.

Khai thác cát trên Sông Tiền, một hoạt động tác động đến dòng chảy của sông.

Lưới bắt cá trên sông Tiền.

Nuôi cá trên Sông Tiền ở Cao Lãnh, Đồng Tháp.

Xói lở bờ sông Tiền ở Bình Đại, Bến Tre.

Cầu khỉ và xưởng mắm cá trên bờ sông Tiền ở Bình Đại, Bến Tre.

Các vấn đề[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm thông tin: Thủy điện ở lưu vực sông Mê Kông

Theo tiến sĩ C. Hart Schaaf, cựu ủy viên Ủy ban Mê Kông, "...Đây là người khổng lồ đang ngủ, chứa trong lòng một tiềm năng to lớn về thủy điện, thủy lợi cũng như khả năng phòng lụt, một nguồn năng lượng bị bỏ quên..."[7].

Có hai vấn đề chính gây mâu thuẫn giữa các bên là việc xây dựng các con đập hay việc phá hủy những chỗ chảy xiết. Một loạt các đập đã được xây dựng trên các nhánh của dòng sông này, đáng kể nhất là đập Pak Mun tại Thái Lan. Nó bị công kích dữ dội do chi phí cao cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường và tới cuộc sống của những khu dân cư chịu ảnh hưởng.

Người Trung Quốc hiện đang tiến hành một chương trình lớn về xây dựng các đập trên sông: họ đã hoàn thành các đập tại Mạn Loan (漫湾), Đại Triều Sơn (大朝山), Cảnh Hồng (景洪), đang tiến hành xây đập Tiểu Loan (小湾 Xiaowan) và khoảng hơn một chục đập khác đang được nghiên cứu. Tính đến đầu năm 2016, Trung Quốc đã hoàn thành ít nhất 8 đập chính trên sông Lan Thương (dòng chính tại thượng nguồn sông Mekong) và đang xây tối thiểu thêm 4 đập nữa. Người ta lo ngại rằng các đập này sẽ ngăn cản chuyển động của trầm tích và sẽ gây thiệt hại cho nông nghiệp và nghề cá ở phía hạ lưu. Sự giảm đi của các dao động mức nước theo mùa cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến Tonlé Sap và Biển Hồ.[8].

Các chính phủ Lào và Campuchia cũng có kế hoạch xây dựng các đập ngăn nước, hiện đang bị một số người phản đối. Chính quyền Trung Quốc cũng thực hiện việc làm sạch các tảng đá và cồn cát từ dòng chảy để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, và điều này cũng khuyến khích Lào làm như vậy. Các nhà môi trường cho rằng điều này sẽ làm tăng sự lưu thông nước và kết quả của nó là sự gia tăng xói mòn cũng như gây thiệt hại cho nguồn cá.[8]

Việt Nam thì thường lên tiếng về các tác động của những hoạt động làm thay đổi chế độ thủy văn của sông Mekong này do có đồng bằng sông Cửu Long là nơi chịu tác động trực tiếp của những thay đổi này. Đặc biệt là đợt hạn hán miền Nam Việt Nam 2016 được cho là do lượng nước đổ về đồng bằng sông Cửu Long từ sông Mê Kông bị giảm mạnh do hệ thống các đập thủy điện được nhiều quốc gia xây dựng trên dòng chính của con sông [9]. Việt Nam tìm cách phản đối việc xây dựng đập trên dòng chính, nhưng các công ty đầu tư thì đang chạy đua trong việc xây dựng thủy điện trên các phụ lưu.

Trong điều kiện chưa có quy tắc ứng xử hoàn thiện, thì theo tạp chí Mỹ The National Interest hệ thống hàng chục đập thủy điện của Trung Quốc tại thượng nguồn các sông ở đông nam dãy Himalaya được coi là "vũ khí hủy diệt đáng sợ". Nó sẵn sàng trở thành công cụ hỗ trợ sức ép cho xử lý các quan hệ ngoại giao rắc rối để thu lợi thế cho họ [10][11].

Các động vật quý hiếm[sửa | sửa mã nguồn]

Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature hay World Wildlife Fund - WWF) cho biết các nhà khoa học đang tìm kiếm các sinh vật như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét. Ngoài ra sông Mê Kông còn có các loài cá chiên và cá lăng quý hiếm, chưa kể đến cá hô và cá chép khổng lồ, dịch vụ du lịch câu cá vì thế rất phát triển ở đây.

Cá heo sông Mekong ở Campuchia.

Đặc biệt, đoạn sông Mê Kông ở Campuchia và vùng hồ Tonlé Sap còn có cá heo sông (Irrawaddy dolphin, Orcaella brevirostris), số lượng có thể chỉ còn vài chục cá thể[12]. Người Campuchia không săn bắt chúng, trừ thời kỳ chiến tranh khi lính Khmer Đỏ đã từng nã đạn cối vào đàn của chúng; hành động này được quay phim tư liệu, sau này phim được National Geographic Channel đưa vào loạt phóng sự về cá heo sông Mekong, thỉnh thoảng được phát từ năm 2010 đến nay[13]. Loài này đang bị đe dọa tuyệt chủng vì môi môi trường sống và nguồn thức ăn đang bị phá vỡ nghiêm trọng. Ngày 24/8/2012 chính phủ Campuchia đã lập khu bảo tồn cá heo sông Mekong với chiều dài 180 km, trải từ tỉnh Kratie ở phía đông tới biên giới với Lào. Người dân vẫn được phép câu cá trong khu bảo tồn, song chính phủ cấm sử dụng nhà nổi, lồng cá và lưới quét bởi chúng đe dọa mạng sống của cá heo sông[14].

Zed Hogan, phụ trách dự án do WWF và Hội địa lý quốc gia tài trợ cho biết, các động vật này là "độc nhất" và "đang biến mất với tốc độ nhanh chóng". Theo Hogan, khi nghiên cứu cá úc khổng lồ ở sông Mê Kông, Campuchia, các nhà khoa học sẽ theo dõi sự di chuyển của cá với hy vọng hiểu thêm về hướng di trú của chúng và nguyên nhân chúng bị chết. Sự biến mất các loài cá này là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo tình trạng đánh bắt quá mức hoặc các xáo trộn khác ở các sông, hồ nơi chúng cư trú.

Một số sinh vật khổng lồ nước ngọt được ghi vào sách đỏ các loài đang bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Cá úc khổng lồ sông Mê Kông được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất cùng họ với loài cá nhám chó, đã được đưa vào danh sách những loài bị đe dọa vào năm 2003, sau khi nghiên cứu chỉ ra số lượng cá giảm ít nhất 80% trong hơn 13 năm qua.

Robin Abell, nhà sinh học của WWF cho biết: "Các loài cá khổng lồ là những sinh vật nước ngọt có trọng lượng tương đương với voi và tê giác và nếu chúng biến mất thì thế giới sẽ bất ổn. Cuối cùng, chúng ta sẽ nhận thức tốt hơn về cách quản lý việc đánh bắt và bảo vệ các nơi cư trú nhằm cứu vớt các loài trong tương lai"[15].

Cầu qua sông[sửa | sửa mã nguồn]

Đoạn hạ lưu trên khu vực Đông Nam Á:

Cầu Hữu nghị Lào- Myanmar nối Luangnamtha, Lào với Shan, Myanmar (dự án) Cầu Hữu nghị Thái-Lào IV, nối tỉnh Chiang Rai của Thái Lan và huyện Huoixai, tỉnh Bokeo của Lào Cầu nối tỉnh Xayabury với tỉnh Oudomxay, Lào Cầu bắc qua sông Mê kông nối Luang Prabang - Xayaburi, tỉnh Xayabury, Lào (đã khánh thành) Cầu Pak Lay nối tỉnh Xayaburi với tỉnh Vientiane, Lào (đã khởi công) Cầu Hữu nghị Thái-Lào VII nối tỉnh Loei của Thái Lan với Viêng Chăn, Lào (dự kiến) Cầu Hữu nghị Thái-Lào, nối tỉnh Nong Khai và thị xã Nong Khai ở Thái Lan với thủ đô Viêng Chăn của Lào Cầu nối Nong Khai và Viêng Chăn (dự án) Cầu Hữu nghị Thái-Lào V nối tỉnh Bueng Kan, Thái Lan với tỉnh Borikhamxay, Lào (dự án) Cầu Hữu nghị Thái-Lào III, nối tỉnh Nakhon Phanom của Thái Lan với thị xã Thakhek, tỉnh Khăm Muộn của Lào Cầu Hữu nghị Thái-Lào II, nối tỉnh Mukdahan của Thái Lan với tỉnh Savannakhetcủa Lào Cầu Hữu nghị Thái-Lào VI, nối huyện Na Tan, tỉnh Ubon Ratchathani với tỉnh Saravane của Lào (dự án) Cầu Hữu Nghị Lào - Nhật Bản, Pakxe, tỉnh Champasack, Lào Cầu Don Khong, Champasack, Lào (đã khánh thành) Cầu Stung Treng, còn gọi cầu hữu nghị Campuchia - Trung Quốc, tỉnh Stung Treng, Campuchia Cầu Kizuna, nối thành phố Kampong Cham với các huyện tỉnh Kampong Cham, Campuchia Cầu Prek Ta Meak, tỉnh Kandal, Campuchia Cầu Hữu nghị Campuchia-Nhật Bản, đoạn cửa sông Tonlesap đổ vào sông Mê kông, Phnom Penh Cầu Monivong, Phnom Penh, Campuchia Cầu Neak Loeung, nối tỉnh Kandal và tỉnh Prey Veng Cầu Ta Khmau, nối Ta Khmau với ngoại ô Phnôm Pênh Cầu Hồng Ngự - Tân Châu, Đồng Tháp - An Giang (dự án) Cầu Cao Lãnh, nối thành phố Cao Lãnh với huyện Lấp Vò, Đồng Tháp Cầu Mỹ Thuận, Tiền Giang - Vĩnh Long Cầu Mỹ Thuận 2, Tiền Giang - Vĩnh Long (dự án) Cầu Rạch Miễu, Tiền Giang - Bến Tre Cầu Rạch Miễu 2, Tiền Giang - Bến Tre (dự án) Cầu Ba Lai, Bến Tre Cầu Ba Lai mới, Bến Tre Cầu Hàm Luông, nối thành phố Bến Tre, huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre Cầu Cổ Chiên, nối huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến Tre - huyện Càng Long tỉnh Trà Vinh Cầu Vĩnh Trường, nối thị trấn An Phú với xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, An Giang Cầu Châu Đốc, nối thành phố Châu Đốc với thị xã Tân Châu (đã khởi công) Cầu Lấp Vò (Cầu Bình Thạnh Trung), huyện Lấp Vò, Đồng Tháp Cầu Vàm Cống, nối quận Thốt Nốt, Cần Thơ với huyện Lấp Vò Đồng Tháp Cầu Cần Thơ, Cần Thơ- Vĩnh Long Cầu Đại Ngãi, Trà Vinh - Sóc Trăng (đã khởi công)
Khách vãng lai đã xóa
✟şin❖
1 tháng 4 2020 lúc 16:49

Bạn tìm link này nhé mk vừa nãy gửi sai đó:https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-50148749

Khách vãng lai đã xóa
Minh Lệ
Xem chi tiết
uk loc
19 tháng 9 2023 lúc 22:16

Ví dụ: Vấn đề khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Anh

-  Khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở Anh:

+ Tài nguyên đất: Anh có khoảng 69% tổng diện tích đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp (trồng các loại cây lúa mì, khoai tây, yến mạch, củ cải đường…).

+ Khoáng sản: Là quốc gia có nhiều khoáng sản, đặc biệt là các kim loại màu như thiếc và đồng,... Khoáng sản được sử dụng cho các ngành công nghiệp với mục đích phát triển kinh tế.

+ Tài nguyên tái tạo: Do nhu cầu sử dụng năng lượng sạch trên thế giới ngày càng cao, việc kinh doanh sản xuất điện từ gió đang phát triển nhanh chóng tại Anh.

-  Bảo vệ môi trường ở Anh:

Là nước đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 1. Vì vậy, từ những năm 1784 Anh đã phải đối mặt với ô nhiễm môi trường, đến nay do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng nên bảo vệ môi trường là vấn đề được Anh quan tâm hàng đầu.

Fjf
Xem chi tiết
Phú Đào
Xem chi tiết
Kiều Đông Du
Xem chi tiết
Đỗ Khánh Chi
4 tháng 8 2017 lúc 4:45

Đáp án A

Những biện pháp giúp bảo vệ hệ sinh thái rừng là: 1, 2, 3, 4, 5.

Hoàng Gia Bảo
Xem chi tiết
Nguyễn Vũ Thu Hương
6 tháng 9 2019 lúc 3:46

Đáp án C

Nguyễn Ly
Xem chi tiết
✟şin❖
1 tháng 4 2020 lúc 16:55

Hợp tác quốc tế ở Biển Đông giữa các quốc gia ASEAN trong bối cảnh hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp thiết. Trên tinh thần đó, bài viết sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng hợp tác quốc tế trên biển trong một số lĩnh vực cụ thể hiện nay giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông và đưa ra những nhận định đánh giá về triển vọng trong thời gian tới.

Tóm tắt: Hợp tác trên biển trong bối cảnh hiện nay là nhu cầu cấp thiết đối với hầu hết các khu vực biển trên toàn thế giới. Hợp tác quốc tế về biển giữa các nước góp phần tăng cường xây dựng lòng tin, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế biển và làm giảm nguy cơ xung đột. Khu vực Biển Đông đang tồn tại nhiều bất đồng mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia do lịch sử để lại. Tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông đang có nhiều diễn biến phức tạp cả trên thực địa cũng như trong các diễn đàn ngoại giao song phương và đa phương. Do đó, hợp tác quốc tế ở Biển Đông giữa các quốc gia ASEAN trong bối cảnh hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp thiết, vấn đề này cần được chú trọng nghiên cứu chuyên sâu để góp phần tham vấn chính sách. Trên tinh thần đó, bài viết sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng hợp tác quốc tế trên biển trong một số lĩnh vực cụ thể hiện nay giữa các nước quốc gia trong khu vực Biển Đông và đưa ra những nhận định đánh giá về triển vọng trong thời gian tới.

Từ khóa: Hợp tác quốc tế, Biển Đông.

Mở đầu

Cuối thế kỷ XX và bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, xu thế hòa bình, tăng cường hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới vẫn là ưu tiên chủ đạo. Trong xu thế đó, hợp tác, giao lưu trên biển được chú trọng hơn. Là một vùng biển nửa kín được bao quanh bởi một số nước ASEAN và Trung Quốc, Biển Đông tồn tại nhiều bất đồng quan điểm, mâu thuẫn trong nhận thức chủ quyền lãnh thổ và xác định ranh giới biển. Do vậy, vùng biển này có những tranh chấp về chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia thành viên ASEAN với nhau và giữa các nước ASEAN với Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan. Thực tế cho thấy, đã có lúc vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo không được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, mà thay vào đó là biện pháp vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực[1]. Khu vực Biển Đông có vị trí địa chiến lược quan trọng trên các phương diện kinh tế, chính trị, quân sự, do đó các quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn đều có lợi ích và mong muốn bảo đảm lợi ích quốc gia ở vùng biển này.

Yêu cầu thực tế khách quan của tình hình khu vực Biển Đông hiện nay đòi hỏi các quốc gia hữu quan, nhất là các nước thành viên ASEAN cần đề cao hợp tác với tầm nhìn chiến lược, tích cực chủ động trong sáng kiến các phương thức hợp tác, giao lưu trên biển để góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định ở Biển Đông, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế, nhất là các lĩnh vực kinh tế biển. Nội dung và phương thức giao lưu, hợp tác quốc tế ở Biển Đông giữa các nước thành viên ASEAN cần được thực hiện trong khuôn khổ của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế hiện đại, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982[2] và các thỏa thuận khu vực như Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông[3]. Hiện nay, các bên liên quan đang đẩy nhanh tiến độ đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông –COC[4]. Ngày 06 tháng 8 năm 2016, các nước ASEAN và Trung Quốc thông qua dự thảo khung Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông sau gần 4 năm bắt đầu khởi động đàm phán. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Trung Quốc diễn ra vào chiều 13/11/2017, tại Thủ đô Manila của Philippines, các nhà lãnh đạo ASEAN và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã chính thức tuyên bố ASEAN và Trung Quốc khởi động tham vấn và đàm phán về nội dung Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông, đồng thời coi đây là cơ sở quan trọng góp phần duy trì hòa bình ở Biển Đông. Các nhà lãnh đạo cũng khẳng định lại việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông và tuân thủ luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế. Bên cạnh đó, lãnh đạo hai bên đã thông qua Tuyên bố về thập kỷ bảo vệ môi trường biển và bờ biển ở Biển Đông với mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống kinh tế giúp người dân trong khu vực ứng phó với các tác động từ biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường. Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc hoan nghênh việc hai bên đã thông qua Khung Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông và đề nghị sớm tiến hành đàm phán thực chất Bộ Quy tắc mang tính khả thi và ràng buộc pháp lý. Về định hướng hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới, Thủ tướng chia sẻ quan điểm ủng hộ đề xuất xây dựng Tầm nhìn Đối tác Chiến lược ASEAN-Trung Quốc 2030 của Trung Quốc theo hướng tiếp tục hỗ trợ xây dựng Cộng đồng ASEAN và nhất trí với các nước chọn chủ đề hợp tác ASEAN-Trung Quốc trong năm 2018 là sáng tạo. Tại Hội nghị, các nhà Lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã xem xét và thông qua Tuyên bố về tăng cường hợp tác kết nối cơ sở hạ tầng, cũng như thúc đẩy gắn kiến giữa Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN và Sáng kiến Vành đai Con đường của Trung Quốc. Trung Quốc đã thông báo sẽ cấp 20 nghìn suất học bổng cùng 500 lượt trao đổi khoa học và 1.500 học bổng đào tạo nghề cho các nước ASEAN trong năm tới.

Thực trạng hợp tác quốc tế trên Biển Đông giữa các nước ASEAN

Trong bối cảnh hiện nay, các nước thành viên ASEAN đang đẩy nhanh hợp tác quốc tế trên biển, trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: hợp tác tuần tra chung trên biển, hợp tác khai thác chung nguồn tài nguyên biển trên vùng biển chồng lấn, hợp tác quốc tế về phân định biển, giao lưu trao đổi, chia sẻ thông tin trên biển giữa các lực lượng chuyên trách trên biển của các nước thành viên ASEAN, hợp tác chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển.

Hợp tác tuần tra chung trên biển giữa các nước ASEAN

Biển Đông là khu vực có nhiều tuyến đường hàng hải quốc tế đi qua, là vùng biển có nhiều hoạt động thương mại nhộn nhịp đứng thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau vùng biển Địa Trung Hải. Tuy nhiên, vùng biển này tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định do nạn cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển vẫn diễn ra thường xuyên, trong khi tranh chấp chủ quyền biển đảo có chiều hướng diễn biến phức tạp. Thực tế cho thấy, trước thập kỷ 80 của thế kỷ XX, các biện pháp xây dựng lòng tin hầu như không được đề cập đến, nhất là giữa các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển. Cụ thể, các hoạt động tuần tra chung chưa được thảo luận rộng rãi, không có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia hữu quan ở Biển Đông. Hiện nay, lực lượng chuyên trách trên biển của các quốc gia hữu quan trong khu vực đã và đang tiến hành hợp tác tuần tra chung trên biển từng bước đạt hiệu quả. Với những hành động tuần tra chung giữa lực lượng hải quân, cảnh sát biển của các nước trong khu vực Biển Đông, nhất là giữa các nước thành viên ASEAN đang ngày càng được đề cao, và được xem là một trong những biện pháp quan trọng về xây dựng lòng tin góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định trên biển.

Đáng chú ý, nguy hiểm vẫn rình rập ở vùng biển của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á do tình hình cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ngày càng có dấu hiệu phức tạp. Với diện tích rộng lớn và hệ thống an ninh được cho là còn mỏng, vùng biển này đang trở thành điểm nóng số một của thế giới về vấn nạn cướp biển và cướp có vũ trang[5]. Đây là nơi xảy ra 41% các vụ cướp biển tấn công trên toàn cầu trong giai đoạn 1995 - 2013, gây thiệt hại tới mức 8,4 tỷ USD mỗi năm. Theo thống kê của Cục Hàng hải quốc tế, quý I năm 2015, trên thế giới có 54 vụ cướp biển, trong đó hơn một nửa số vụ tập trung ở Đông Nam Á. Indonesia là quốc gia có số vụ bị cướp biển tấn công nhiều nhất, với gần 40% tổng số các vụ. Việt Nam cũng đang chứng kiến sự gia tăng số vụ cướp có vũ trang[6], đặc biệt, nhiều vụ tàu lạ tấn công tàu ngư dân Việt Nam có sử dụng vũ khí trái phép để trộm, cướp tài sản, đe dọa và gây thương tích cho thuyền viên. Điển hình nhất là vụ tấn công ngày 07/12/2014, tàu VP Asphalt 2[7] của Việt Nam chở 2.300 tấn nhựa đường cùng 16 thuyền viên đang trên hành trình từ Singapore về Việt Nam đã bị cướp biển khống chế, bắn bị thương 01 thuyền viên và bắt giữ 15 người còn lại. Đáng chú ý, khu vực xảy ra vụ tấn công rất gần với vị trí tàu Sunrise 689 bị cướp vào tháng 10-2014[8]. Các vụ tấn công xảy ra liên tiếp đã gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng cướp biển ngày càng gia tăng trong khu vực, gây tâm lý lo ngại cho mọi tàu thuyền có hành trình qua đây. Theo báo cáo đặc biệt của Recaap về vụ bắt cóc thuyền viên của tàu lai dắt tại vùng biển gần Sabah và Nam Philippines, từ cuối tháng 3 đến giữa tháng 4/2016 đã xảy ra 3 vụ cướp biển có vũ trang tấn công và bắt cóc thuyền viên tàu lai dắt trong vùng biển Đông Sabah và Nam Philippines. Cụ thể, ngày 26/3/2016, tàu Brahma 12 treo cờ Indonesia kéo sà lan Anand 12, chở 7.000 tấn than rời cảng Kalimantan, Indonesia đến nhà máy điện ở Batangas, Philippines, đã bị 17 tên cướp trang bị súng đột nhập lên tàu từ một tàu cao tốc có 3 máy ngoài và một tàu vỏ gỗ động cơ đẩy thủy lực. Toán cướp bắt toàn bộ 10 thuyền viên người Indonesia. Ngày 01/4/2016, tàu Massive 6 quốc tịch Malaysia với 9 thuyền viên đang trên đường từ Manila, Philippines đi Tawau, Malaysia để tiếp nhiên liệu. Tại khu vực cách Semporna, Sabah, cách phía Đông Malaysia khoảng 27 hải lý, 8 tên cướp trang bị súng đã tiếp cận và lên tàu, bắt 4 thuyền viên người Malaysia. Ngày 15/4/2016, tàu Henry quốc tịch Indonesia kéo theo sà lan Christi khi đang trên đường đến Cebu, Philippines đi Taraka, Indonesia đã bị một số tên cướp có vũ trang sử dụng xuồng cao tốc tiếp cận. Tàu bị tấn công bằng súng khiến một thuyền viên bị thương và 4 người khác bị bắt. Trung tâm Chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng và an toàn (VRQC), Cục Đăng kiểm Việt Nam cho biết: Tình hình an ninh hàng hải nói chung và cướp biển ở khu vực Đông Nam Á nói riêng gần đây diễn biến rất phức tạp. Đặc biệt, nạn cướp biển có xu hướng tăng mạnh tại khu vực biển Sulu-Celebes phía Nam Philippines và khu vực biển phía Đông Sabah của Malaysia. Từ tháng 11/2016 đến tháng 02/2017, xảy ra 2 vụ tàu biển Việt Nam đang trên hành trình chở hàng bị cướp biển tấn công và bắt giữ người. Cụ thể, ngày 19/02/2017 tàu Giang Hải của Công ty cổ phần Vận tải biển quốc tế - Hải Phòng bị cướp biển tấn công tại vùng biển Philippines, 6 người bị bắt đi. Trước đó, ngày 11/11/2016, cướp biển cũng tấn công tàu Royal 16 tại vùng biển Philippines và bắt giữ 6 người làm con tin. Cũng theo đại diện của VRQC, trước đây phương thức thường thấy của cướp biển là tấn công tàu để lấy tài sản, tư trang, sau đó chuyển sang tấn công tàu dầu, nhưng nay cướp biển có xu hướng chuyển sang bắt giữ người để đòi tiền chuộc. Cướp biển tấn công tàu rất manh động và tàn bạo, thậm chí sẵn sàng đánh đập, giết chết nạn nhân. Cướp biển thường dùng tàu cao tốc, súng bắn từ xa uy hiếp, tấn công tàu vận tải, tàu cá đi lại qua khu vực này để bắt người và mang giấu tại các đảo hẻo lánh ở khu vực nhằm đòi tiền chuộc. Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, trong tháng 01/2017 tại khu vực Châu Á đã xảy ra 06 vụ cướp có vũ trang tấn công tàu thuyền, trong đó có 04 vụ việc được thực hiện thành công và 02 vụ việc bất thành. Trong 04 vụ cướp có vũ trang tấn công thành công có 01 vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, 01 vụ việc nghiêm trọng, 01 vụ việc ít nghiêm trọng và 01 vụ việc liên quan đến trộm cắp vặt. Vụ việc được phân loại đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến việc nhóm tội phạm có vũ trang tấn công tàu cá Malaysia khi tàu đang hoạt động tại khu vực biển Sulu – Celebes và bắt giữ 03 thuyền viên làm con tin.

Do tình hình an ninh ở Biển Đông có chiều hướng phức tạp như phân tích ở trên, chính vì vậy các quốc gia thành viên ASEAN trong thời gian qua đã đẩy nhanh tiến trình hợp tác tuần tra chung trên biển. Cụ thể từ năm 1998 Việt Nam đã thực hiện tuần tra chung trên biển với Thái Lan giữa lực lượng hải quân Việt Nam với lực lượng hải quân Hoàng gia Thái Lan. Cho đến nay hai nước vẫn thường xuyên duy trì hoạt động tuần tra chung trên biển của lực lượng chuyên trách. Thông qua hoạt động tuần tra chung trên biển đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên vũng biển giáp ranh của hai nước, qua đó tạo điều kiện cho ngư dân hai nước khai thác nguồn tài nguyên hải sản trên biển. Mặt khác, thông qua những chuyến tuần tra chung trên biển của các lực lượng chức năng đã góp phần xây dựng lòng tin, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ thông tin để cùng nhau quản lý tốt vùng biển trong vịnh Thái Lan. Ngoài Thái Lan, Việt Nam và Campuchia vẫn thường xuyên tổ chức hoạt động tuần tra chung trên biển giữa lực lượng chuyên trách của hai nước, qua đó góp phần duy trì an ninh và trật tự ở vùng biển giáp ranh của hai nước.

Tuần tra chung trên biển giữa các nước Indonesia, Malaysia, Philippines sẽ được thực hiện trong thời gian tới. Do yêu cầu cấp thiết trong thời gian qua Indonesia, Malaysia và Philippines đã tuần tra chung trên biển tại vùng biển phía Nam Philippines để ngăn chặn các hoạt động bắt cóc, đòi tiền chuộc trong khu vực. Cuộc tuần tra trên Biển Sulu nằm giữa phía Đông Malaysia và Philippines là nỗ lực mới của 3 quốc gia Đông Nam Á nhằm chống lại các hoạt động tội phạm xuất phát từ miền Nam Philippines. Từ đầu năm 2016, hàng chục người Indonesia và Malaysia đã bị bắt cóc bởi các phần tử vũ trang có liên hệ tới nhóm phiến quân Abu Sayyaf ở miền Nam Philippines tại vùng biển giáp ranh ba quốc gia này. Theo hãng tin AFP, Bộ trưởng quốc phòng Malaysia, ông Hishammuddin Hussein cho biết, lực lượng quân đội 3 nước Malaysia, Philippines và Indonesia sẽ tiến hành tuần tra chung trên vùng biển ngoài khơi của vùng Mindanao vào tháng 6/2017 nhằm phòng ngừa và trấn áp nguy cơ an ninh từ các phiến quân Hồi giáo và phiến quân thuộc tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng –IS.

Theo kế hoạch cụ thể đã được thoả thuận từ trước, ngày 19/6/2017, hải quân Philippines, Indoneisa và Malaysia đã tiến hành diễn tập và tuần tra chung tại biển Sulu, phía Đông Nam Biển Đông, đánh dấu việc 3 nước bắt đầu các cuộc tuần tra chung nhằm tăng cường an ninh tại vùng biển thường xuyên bị lực lượng nổi dậy và cướp biển hoành hành này. Buổi lễ khai mạc đợt tuần tra chung này được tổ chức tại căn cứ hải quân ở Borneo của Indonesia và có sự tham dự của bộ trưởng quốc phòng và tư lệnh quân đội 3 nước. Hải quân 3 nước đã triển khai các tàu chiến, máy bay trực thăng và máy bay trinh sát tham gia các hoạt động tuần tra nhằm đảm bảo an ninh khu vực sau khi lực lượng khủng bố hồi giáo tăng cường hoạt động tại miền Nam Philippines, đặc biệt là cuộc tấn công của quân nổi dậy vào thành phố Marawi. Cũng trong ngày 19/6/2017, Indonesia đã mở cửa một trung tâm chỉ huy hải quân tại căn cứ Taracan, trên đảo Borneo. Hai trung tâm chỉ huy hải quân khác cũng đã được thành lập tại Malaysia và Philippines. Giới chức quốc phòng Indonesia cho biết, các trung tâm sẽ hoạt động trên cơ sở phối hợp tuần tra và chia sẻ thông tin tạo thành tam giác kiểm soát an ninh khu vực. Hải quân Indonesia cũng yêu cầu người dân địa phương, ngư dân tại khu vực lãnh hải giáp Philippines báo cáo cho lực lượng an ninh về những đối tượng khả nghi. Ngoài ra một đơn vị cảnh sát cơ động cũng được điều tới khu vực phía Bắc đảo Sulawesi của nước này, để ngăn chặn các tay súng vượt biên.

Ngày 13 tháng 10 năm 2017, ba nước Philippines, Indonesia và Malaysia đã tiến hành tuần tra chung, việc tuần tra chung này sẽ góp phần tăng cường an ninh hàng không và hàng hải trong khu vực. Hoạt động tuần tra chung trên không được xúc tiến sau khi các cuộc tuần tra chung trên biển nhằm đối phó với các mối đe dọa như cướp biển, bắt cóc, tội phạm xuyên quốc gia khác và đặc biệt là ngăn chặn các phiến quân Hồi giáo cực đoan ủng hộ IS ở miền Nam Philippines tràn sang các quốc gia láng giềng. Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Hishammuddin Hussein cho rằng, cuộc xung đột tại thành phố miền Nam Philippines cho thấy các tổ chức khủng bố liên kết với IS đã lợi dụng các lỗ hổng trong quản lý biên giới và câu kết với các nhóm khủng bố địa phương.

Bên cạnh đó, các bên liên quan còn tổ chức các cuộc tuần tra chung ở eo biển Malacca nhằm đảm bảo an ninh hàng hải và trấn áp cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền. Malaysia và Indonesia đã tiến hành tuấn tra chung vào ngày 29/5/2015 và kéo dài 12 ngày. Các đơn vị thực thi pháp luật biển Malaysia đã phối hợp với các cơ quan liên quan của phía Indonesia như Hải quân, Cảnh sát biển và Hội đồng an ninh hàng hải. Đô đốc Sulistiyanto, Chỉ huy căn cứ hải quân Tanjungpinang của Indonesia, khẳng định hoạt động tuần tra chung sẽ góp phần tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các đơn vị thực thi pháp luật trên biển giữa 2 nước.

Nhìn tổng thể, hoạt động tuần tra chung được tổ chức thường niên giữa các nước ASEAN góp phần đảm bảo an toàn hàng hải đồng thời giảm bớt nguy cơ xung đột tiềm tàng ở Biển Đông. Hợp tác tuần tra chung là hành động thiết thực của các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển giữa các quốc gia ở Biển Đông trong thời gian vừa qua, biện pháp này đã được một số quốc gia thiện chí phối hợp. Trong khi tranh chấp chủ quyền biển đảo chưa được giải quyết một cách triệt để, hợp tác tuần tra chung trên biển được xem là biện pháp xây dựng lòng tin hữu hiệu ở Biển Đông và thực tế cho thấy biện pháp này đã dần dần trở thành nhu cầu cấp thiết góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định. Thực tiễn cho thấy các chuyến tuần tra chung góp phần thúc đẩy gìn giữ môi trường biển hòa bình, ổn định, qua đó góp phần răn đe những âm mưu và hành động của cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ở khu vực Biển Đông.

Hợp tác phát triển chung nguồn tài nguyên biển

Hợp tác khai thác chung chỉ có thể được tiến hành trên vùng biển có sự chồng lấn thực theo quy định của UNCLOS. Biển Đông vừa là nơi có lợi ích chung, vừa là nơi có vùng biển đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán riêng của các quốc gia trong khu vực. Chính vì vậy, việc tăng cường khả năng hợp tác cùng phát triển trên một số lĩnh vực ít nhạy cảm ở vùng biển có sự chồng lấn thực sự chiếu theo quy định của UNCLOS là nhu cầu cấp thiết đối với các bên liên quan. Thông qua biện pháp hợp tác cùng nhau khai thác nguồn tài nguyên biển sẽ góp phần gìn giữ môi trường hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên để tăng cường biện pháp xây dựng lòng tin, các bên cần xác định rõ việc khai thác chung chỉ diễn ra ở vùng biển có sự chồng lấn thực sự, mà ở đó các bên chưa ký kết hiệp định về phân định biển. Việc phân định chính xác quyền sở hữu và xác định quy chế pháp lý vùng biển của các cấu trúc địa lý như đảo đá, bãi chìm, bãi cạn và các nguồn tài nguyên duới đáy biển trên cơ sở của UNCLOS là vấn đề cấp thiết.

Thực tiễn cho thấy, cần phải có những giải pháp chung mang tính chia sẻ và có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia hữu quan, đây được xem là cơ sở hình thành quan điểm hợp tác khai thác chung ở Biển Đông trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng để góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định. Từ kinh nghiệm lịch sử, mô hình hợp tác khai thác chung diễn ra ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới trong khi vấn đề chủ quyền chưa được giải quyết dứt điểm. Do đó, khai thác chung không phải là ý tưởng mới trong xử lý các tranh chấp biển trên thế giới[9].

Trên thực tế, vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này nằm ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu thấp, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương đối bằng phẳng. Hai nước Việt Nam và Malaysia đều là thành viên của UNCLOS, cho nên nguyên tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là nguyên tắc công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS. Trước yêu cầu của thực tế, hai bên đã tuần tự đàm phán, thu hẹp những bất đồng, nhằm tìm ra giải pháp công bằng mà hai bên có thể chấp nhận. Do đều là thành viên của UNCLOS, Việt Nam và Malaysia chấp nhận áp dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và những quy định của UNCLOS để giải quyết phân định biển. Đầu năm 1992, trong chuyến thăm Kuala Lumpur của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một thoả thuận về tiến hành đàm phán phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được thông qua.

Trên cơ sở thoả thuận đó, từ ngày 03-05/6/1992, tại KualaLumpur, vòng đàm phán đầu tiên giữa hai nước Việt Nam và Malaysia đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Trên cơ sở nội dung của vòng đàm phán đầu tiên đó, hai nước đã từng bước nhất trí thỏa thuận áp dụng nguyên tắc dàn xếp tạm thời được quy định trong Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, đó là ranh giới được vạch ra và ghi rõ trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định vị trí của nó, có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch định này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm. Trên cơ sở đó hai bên nhanh chóng đi đến thỏa thuận áp dụng mô hình khai thác chung cho vùng xác định trên tinh thần hiểu biết và hợp tác[10].Ngày 05/6/1992, hai nước đã chính thức ký Bản ghi nhớ quy định phạm vi vùng xác định, và hai bên phải cử đại diện của mình để tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác trong vùng xác định và sự hợp tác khai thác đó không làm phương hại đến kết quả hoạch định phân định biển cuối cùng giữa hai nước.

Việc ký kết Bản ghi nhớ ngày 05/6/1992 cho thấy Việt Nam luôn là nước đi đầu trong việc áp dụng các quy định của các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, không chỉ trong phân định biển mà cả trong các biện pháp phát triển chung nguồn tài nguyên biển trong vùng biển chồng lấn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Bản ghi nhớ cũng không giải quyết triệt để được vấn đề phân định biển giữa hai nước Việt Nam và Malaysia. Thực tế cho thấy, hai bên cần phải tiếp tục đàm phán hòa bình và dựa trên nội dung của UNCLOS và Bản ghi nhớ để phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Để thực hiện nội dung của Bản ghi nhớ, Việt Nam đã cử Petro Vietnam, Malaysia cử Petronas hợp tác khai thác nguồn dầu khí ở vùng xác định. Ngày 29/7/1997, tấn dầu đầu tiên đã được khai thác tại mỏ Bunga kekwa và sự kiện này đã đánh dấu thành công lớn cho cả hai bên trong quản lý, hợp tác khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như đóng góp kinh nghiệm quý báu để giải quyết các tranh chấp khác. Do khoảng cách giữa bờ biển và các đảo của hai bên chưa tới 400 hải lý, nằm trên một thềm lục địa thuần nhất và hơn nữa yêu sách của hai bên đều dựa trên đường trung tuyến, tức là dựa trên tiêu chuẩn khoảng cách bờ biển của hai quốc gia, cho nên hai nước có thể sử dụng một đường phân định đơn nhất làm ranh giới cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước.

Hợp tác khai thác chung được xem là một thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan, nhằm chia sẻ nguồn tài nguyên trên các vùng biển chồng lấn. Cơ sở của các thỏa thuận này chính là những quy định của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là quy định của UNCLOS. Xét trên phương diện luật, UNCLOS yêu cầu các nước liên quan tiến hành đàm phán về các dàn xếp tạm thời trong khi chờ đàm phán để ký hiệp định cuối cùng về việc phân định ranh giới biển. Dàn xếp tạm thời có thể bao gồm các thỏa thuận cùng nhau khai thác thủy sản hoặc cùng nhau thỏa thuận khai thác các nguồn tài nguyên biển khác như dầu mỏ và khí đốt. Về phương diện chính trị, thỏa thuận tạm thời về khai thác chung được xem là giải pháp tạm thời nhằm giảm nguy cơ xung đột giữa các bên tranh chấp và chỉ nhằm mục đích khai thác nguồn tài nguyên biển và biện pháp này cũng không làm ảnh hưởng đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển. Như vậy, hợp tác khai thác chung giữa các quốc gia ASEAN được triển khai thực hiện thường xuyên và có hiệu quả sẽ góp phần làm giảm nguy cơ gây bất ổn và đảm bảo môi trường hòa bình và tự do hàng hải ở Biển Đông. Tại những cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông đã có nhiều đề nghị áp dụng phương án hợp tác khai thác chung trên vùng biển chồng lấn, nhưng trên thực tế việc triển khai mô hình này không phải lúc nào cũng dễ dàng.

Hợp tác phân định biển giữa các quốc gia hữu quan

Phân định biển là nội dung quan trọng trong chính sách của các quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, đảo trên thế giới và khu vực. Phân định biển giữa các quốc gia có vùng biển tiếp giáp nhau là nhằm tạo ra đường biên giới trên biển rõ ràng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để quản lý và phát triển các lĩnh vực kinh tế biển. Trong thực tế, tại khu vực Biển Đông, đã có nhiều hiệp định phân định biển được ký kết trên tinh thần hòa bình, ổn định, hợp tác khai thác chung giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam đã tiến hành đàm phán phân định biển với hầu hết các nước láng giềng có chung biên giới biển, có thể kể tới Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2000, Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc năm 2000, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam với Thái Lan trong vịnh Thái Lan năm 1997, Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia năm 1982, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia năm 2003. Hiện nay Việt Nam và Indonesia đang đẩy nhanh tiến độ đàm phán phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước. Tuy nhiên, vấn đề phân định biển không phải ở khu vực nào cũng có thể tiến hành một cách dễ dàng được, bởi vì khó khăn nhất là ở vấn đề đàm phán giải quyết về tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng đảo vì do quan điểm của chủ quyền của các bên còn quá xa nhau.

Ngày 15/12/2016, Quốc hội Indonesia (DPR) đã phê chuẩn hiệp định phân định biển giữa Indonesia và Singapore, theo đó ranh giới trên biển giữa hai nước được xác định ở phía Đông eo biển Singapore. Hiệp định này xác định đường biên giới trải dài 9,45 km giữa Changi của Singapore và đảo Batam của Indonesia. Sự phê chuẩn này diễn ra sau 27 tháng kể từ khi hiệp định biên giới trên biển giữa hai nước được ký kết vào tháng 9/2014. Đáng chú ý là trong kỳ họp Quốc hội kéo dài 1 tháng, DPR chỉ phê chuẩn 2 dự luật, trong đó có hiệp định với Singapore, trong khi trì hoãn tới 40 dự luật khác. Indonesia coi việc phê chuẩn Hiệp định trên có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó giúp phân định ranh giới trên biển nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền và bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Hiện nay Indonesia đã giải quyết tất cả các ranh giới hàng hải song phương với Singapore, ngoại trừ ranh giới giữa đảo Bintan của Indonesia và đảo Pedra Branca của Singapore. Singapore cần phải đàm phán phân định ranh giới vùng biển của đảo Pedra Branca với Malaysia sau khi đào nảy được Tòa trọng tài công lý quốc tế (ICJ) tuyên bố là thuộc chủ quyền của Singapore vào tháng 5/2008. Hiệp định vừa được phê chuẩn là hiệp định trên biển thứ ba giữa Singapore và Indonesia.

Vào tháng 5/1973, dưới thời của Chính quyền của Tổng thống Suharto và Thủ tướng Lý Quang Diệu, hai nước đã ký Hiệp định phân định biên giới trên biển dọc theo phần trung tâm của eo biển Singapore. Hiệp định này được Indonesia phê chuẩn vào tháng 12/1973, Singapore phê chuẩn vào tháng 8/1974. Tiếp đó vào tháng 3/2009, hiệp định phân định biên giới thứ hai tại phía Tây của eo biển Singapore, bao gồm vùng biển trải dài giữa bãi Sultan của Singapore và vùng biển Pulau Nipa của Indonesia. Hiệp định thứ hai này được cả hai bên phê chuẩn vào tháng 8/2010. Mối quan hệ cá nhân tốt đẹp giữa Thủ tướng Lý Hiển Long và Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono và sau đó là Tổng thống Jokowi Widodo đã giúp cho hai nước nhanh chóng phê chuẩn Hiệp định phân định biên giới thứ 3. Hiệp định này được phê chuẩn chỉ một tháng sau khi hai nhà lãnh đạo có cuộc gặp hẹp đầu tiên vào tháng 11/2016. Sự dễ dàng và nhanh chóng trong việc phê chuẩn của Indonesia cũng có thể là nhờ sự ủng hộ về chính trị trong nước. Chủ nghĩa dân tộc bùng phát trong xã hội Indonesia đòi hỏi chính phủ nước này phải đảm bảo Indonesia có đường biên giới xác định rõ ràng để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Với hiệp định này, Indonesia có thể có điều kiện tốt hơn để quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Phân định biển giữa Indonesia và Philippines: Ngày 23-5/2014, tại Malacanang - Phủ Tổng thống Philippines, Bộ trưởng Ngoại giao nước chủ nhà Albert del Rosario và người đồng cấp Indonesia Marty Natalegawa đã ký Hiệp định về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Indonesia trên vùng biển Mindanao và Celebes trước sự chứng kiến của Tổng thống hai nước. Lễ ký trên diễn ra trong khuôn khổ chuyến thăm cấp nhà nước tới Philippines, đồng thời để tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á và Diễn đàn kinh tế thế giới của Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono.

Phân định biển giữa Malaysia với Indonesia: Tổng thống Indonesia Joko Widodo và Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã nhất trí đẩy nhanh việc hoàn thành việc phân định biên giới biển giữa hai nước. Đây là một trong những điểm chính của thỏa thuận giữa Indonesia và Malaysia trong các cuộc họp song phương giữa lãnh đạo hai nước tại Putra Jaya, Malaysia ngày 6/2/2015. Cuộc đàm phán kỹ thuật đường biên giới biển giữa Indonesia và Malaysia đã được tổ chức từ ngày 24 đến ngày 26/2/2015. Ngoài ra, để tạo động lực sớm hoàn thành các cuộc đàm phán, Tổng thống Jokowi và Thủ tướng Najib đã đồng ý bổ nhiệm Trưởng đoàn đàm phán của hai nước. Bên cạnh đó, hai nước cũng nhất trí tiến tới hoàn thành các tiêu chuẩn của các thủ tục trong việc xử lý đối với các ngư dân trong vùng biển vẫn còn chồng chéo. Đối với lao động nhập cư Indonesia, hai nhà lãnh đạo nhất trí tăng cường các nỗ lực bảo vệ lao động nhập cư tốt hơn, trong đó có việc tăng cường cung cấp lao động thông qua thủ tục hợp pháp. Hai nhà lãnh đạo đã thể hiện quyết tâm tiếp tục tối ưu hóa tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai nước, bao gồm cả thương mại và đầu tư. Tổng thống Jokowi đã mời các doanh nhân Malaysia đầu tư vào Indonesia, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, như đường cao tốc, nhà máy điện, đường sắt và cảng biển.

Triển vọng hợp tác quốc tế trên biển giữa các nước ASEAN

Trong xu thế hòa bình hữu nghị giữa các nước ASEAN hiện nay được chú trọng, những bất đồng, mâu thuẫn giữa các quốc gia trên biển sẽ được các quốc gia hữu quan nỗ lực hợp tác để giải quyết thông qua đàm phán hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và các thỏa thuận khu vực. Tình hình an ninh khu vực Biển Đông có chiều hướng diễn biến phức tạp, khó lường, do vậy nội dung hợp tác tuần tra chung trên biển sẽ ngày càng trở nên nhu cầu cấp thiết của thực tiễn. Chính vì vậy, lực lượng chuyên trách trên biển của các nước hữu quan thành viên ASEAN cần tiếp tục hợp tác, trao đổi thông tin, phối hợp xây dựng kế hoạch tuần tra chung trên biển nhằm đạt hiệu quả cao nhất.

Ở những vùng biển chồng lấn chưa có hiệp định phân định biển rõ ràng theo quy định của UNCLOS, cần có những thỏa thuận phát triển chung đối với nguồn tài nguyên biển. Thỏa thuận phát triển chung sẽ góp phần tăng cường xây dựng lòng tin, giảm bớt sự nghi kỵ lẫn nhau. Hiện nay ở Biển Đông giữa các quốc gia thành viên ASEAN còn có nhiều vùng biển chồng lấn chưa được phân định rõ ràng, do đó nhu cầu hợp tác khai thác chung là rất lớn. Khu vực Biển Đông còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định, ảnh hưởng đến tự do hàng hải quốc tế và gây mất an toàn đối với tàu thuyền của ngư dân khai thác hải sản. Do đó nhu cầu hợp tác quốc tế giữa các quốc gia hữu quan để chia sẻ thông tin là cấp thiết. Bối cảnh hiện nay và thời gian tới, các quốc gia thành viên ASEAN cần tăng cường phối hợp chia sẻ thông tin, phối hợp hành động để duy trì an ninh, trật tự an toàn và đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông. Để thiết lập trật tự hàng hải hợp pháp ở Biển Đông đòi hỏi ba yếu tố: (i) tuân thủ nghiêm túc UNCLOS, (ii) đề cao vai trò trung gian của các tổ chức quốc tế để thảo luận các vấn đề an ninh hàng hải và thúc đẩy hợp tác, (iii) củng cố lại các chuẩn mực, quy tắc để giải quyết khủng hoảng, kiểm soát và ngăn ngừa xung đột.

Thay lời kết

Tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, xuất phát từ quan điểm khác nhau về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán. Nghiên cứu chỉ đưa ra những cách thức tiếp cận nhằm xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, đặc biệt là thông qua các thoả thuận về phối hợp hoạt động như trao đổi thông tin, tuần tra chung và diễn tập của các lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển, phối hợp kiểm soát an toàn hàng hải. Các vấn đề liên quan đều rất phức tạp, còn có nhiều lĩnh vực liên quan đến nhiều lợi ích và mâu thuẫn lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Thực tế cho thấy, trước nhu cầu ngày càng tăng đối với các biện pháp xây dựng lòng tin trên biển, các quốc gia hữu quan cần phải tiến hành hợp tác thiện chí để xây dựng lòng tin góp phần làm giảm nguy cơ xung đột. Hợp tác quốc tế trên biển giữa các nước thành viên ASEAN là yêu cầu của thực tiễn nhằm giảm bớt nguy cơ tiềm tàng xung đột vũ trang và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các bên liên quan như. Các hoạt động hợp tác có thể bao gồm kiểm soát hàng hải, tuần tra chung, thao lược diễn tập, hợp tác bảo vệ vận tải biển và hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Một số biện pháp về hợp tác quốc tế trên biển giữa các quốc gia thành viên ASEAN được khởi xướng từ những cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông nhằm mục đích đạt đến sự hiểu biết chung, phối hợp hoạt động, góp phần gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định ở khu vực Biển Đông. Thực tế cho thấy Biển Đông vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định, chính vì vậy vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ những nhân tố liên quan, trong đó có chính sách của các nước lớn, để có thể đúc rút và tham vấn những giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả trong mọi tình huống nhất là đối với lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển./.

TS. Nguyễn Thanh Minh, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Tác giả.

Bài viết thuộc bản quyền Nghiên cứu Biển Đông. Đề nghị chỉ được dẫn đường link bài viết, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập.

[1] Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và 06 đảo đá tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, đối với quần đảo Hoàng Sa lợi dụng khoảng trống quyền lực năm 1956 Trung Quốc đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm đảo phía Đông và năm 1974 dùng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo phía Đông. Năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm 06 đảo đá ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

[2] Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển (United Nations Convention on the Law of the Sea-UNCLOS)

[3] Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea- DOC) ký kết tháng 11/2002.

[4]The Code of Conduct for the South China Sea: Các nước ASEAN và Trung Quốc thông qua dự thảo khung Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông sau gần 4 năm bắt đầu khởi động đàm phán. Sau khi các ngoại trưởng ASEAN và Trung Quốc thông qua dự thảo khung vào chiều ngày 06/8/2017, văn kiện đã được trình lên các lãnh đạo tại Hội nghị cấp cao từ tháng 11/2017. Việc thông qua dự thảo khung Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông sẽ là bước khởi đầu cho tiến trình đàm phán thực chất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông có hiệu lực và ràng buộc về pháp lý, góp phần duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực.

[5] Báo cáo thường niên năm 2014 của Trung tâm Chia sẻ Thông tin thuộc Hiệp định Hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang- The Regional Cooperation Agreement on Combating Piracy and Armed Robbery against Ships in Asia - ReCAAP cho biết, năm 2014 đã có tới 183 vụ cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền xảy ra ở khu vực, tăng 22% so với năm 2013, trong đó có 168 vụ cướp biển đã hành động thành công.

[6] Theo Cục Hàng hải Việt Nam, từ đầu năm 2015 đến nay đã xảy ra 08 vụ việc liên quan đến an ninh hàng hải trong phạm vi vùng biển Việt Nam.

[7] VP Asphalt 2 là tàu chuyên dụng lớn nhất, chất lượng cao được đóng mới tại Việt Nam; tàu có thiết kế và chế tạo đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của đăng kiểm Việt Nam và quốc tế; áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến, sử dụng các thiết bị hiện đại, là một trong những tàu vận chuyển nhựa đường lỏng tốt nhất hiện nay tại khu vực Đông Nam Á.

[8] Rạng sáng ngày 03/10/2014, sau khi tiếp nhận 6.200 m3 dầu DO để chở về cảng Cửa Việt giao cho công ty Hưng Phát, tàu Sunrise 689 thuộc công ty Cổ phần đóng tàu thủy sản Hải Phòng rời cảng Singapore khoảng 120 hải lý thì bất ngờ bị toán cướp biển có trang bị vũ khí tấn công, đập phá hệ thống thông tin liên lạc, định vị trên tàu và giam giữ thủy thủ đoàn trong suốt 6 ngày đêm. Sau khi bố trí 01 tàu cá và 01 tàu chở dầu chuyên dụng áp sát, hút khoảng 2.000 m3 dầu thì nhóm cướp biển mới rời đi, lúc này các thuyền viên mới tự giải cứu được.

[9] Mô hình khai thác chung trên thế giới đã được thực hiện từ lâu, điển hình là Hiệp ước Svalbard ngày 19/12/1920, theo đó các bên tranh chấp công nhận chủ quyền của Na uy đối với quần đảo Svalbard, trong khi duy trì quyền tiếp cận hiện hữu của các quốc gia khác đối với quần đảo này nhằm mục đích thực hiện việc khai thác, săn bắt và các hoạt động kinh tế khác. Kể từ khi Hiệp ước này ra đời, trên thế giới đã có khoảng 20 điều ước quốc tế về mô hình hợp tác khai thác chung được ký kết, ví dụ như Thỏa thuận khai thác chung giữa Papua New Guinea và Australia năm 1978, Na uy và Anh ở biển Bắc, Arab Saudi và Sudan, Thailand và Malaysia, Australia và Indonesia, Việt Nam và Malaysia… Xem Hoàng Việt, “Giải pháp nào cho tranh chấp Biển Đông”, Tạp chí Thời đại mới, số 19, 7-2010. Http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_HoangViet.htm.

[10] Bản Ghi nhớ áp dụng nguyên tắc dàn xếp tạm thời giữa Việt Nam và Malaysia năm 1992. Niên giám các Điều ­ước quốc tế của n­ước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

Khách vãng lai đã xóa
Minh Lệ
Xem chi tiết
Mai Trung Hải Phong
16 tháng 8 2023 lúc 10:58

tham khảo

VẤN ĐỀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ BẢO VỆ THIÊN NHIÊN Ở RỪNG A-MA-DÔN

1. Khái quát về rừng A-ma-dôn

- Vị trí:

+ Nằm ở phía bắc của Nam Mỹ.

+ Tiếp giáp: phía bắc giáp sơn nguyên Guy-a-na, phía tây giáp dãy An-đét, phía nam giáp sơn nguyên Bra-xin và phía đông giáp Đại Tây Dương.

- Diện tích: khoảng 6 triệu km².

- Hệ sinh thái:

+ Phong phú và đa dạng nhất thế giới.

+ Thực vật: nhiều loài như nguyệt quế, cọ, keo, cao su, nhiều cây gỗ quý (gụ, tuyết tùng,...),...

+ Động vật (hơn 2 000 loài): nhiều loài động vật hoang dã gồm báo đốm, hươu đỏ,... nhiều loài động vật gặm nhấm và một số loại khỉ,...

2. Các hoạt động khai thác, sử dụng thiên nhiên ở rừng A-ma-dôn

- Khai thác khoáng sản: Trong khu vực rừng A-ma-dôn rất giàu tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là vàng, đồng,...

=> Ngành khai thác mỏ phát triển.

- Sản xuất nông nghiệp: Với diện tích rộng, đất đai màu mỡ, mạng lưới sông ngòi rộng lớn và dày đặc thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.

- Xây dựng thủy điện: do có các con sông lớn (sông A-ma-dôn, sông A-ra-goay-a,...) bắt nguồn từ các dãy núi và sơn nguyên cao đổ về phía Đại Tây Dương => thuận lợi để xây dựng các đập thủy điện lớn.

 

Ví dụ: Đập thủy điện Belo Montre dài 6 km với công suất 11 233 MW (đập thủy điện lớn thứ 3 thế giới) sẽ cung cấp điện cho 23 triệu hộ gia đình trong khu vực và tạo ra hàng trăm ngàn việc làm cho người dân địa phương.

3. Ảnh hưởng của các hoạt động khai thác, sử dụng thiên nhiên đến rừng A-ma-dôn

- Việc khai thác mỏ bất hợp pháp cũng đã kéo theo nạn phá rừng, làm ô nhiễm sông ngòi, đe dọa cuộc sống của hàng trăm cộng đồng bản địa. Bên cạnh đó, việc sử dụng thủy ngân trong sản xuất, khai thác khoáng sản cũng đang làm ô nhiễm nặng nề nguồn nước.

- Rừng đang bị tàn phá với tốc độ khủng khiếp do việc chuyển đổi thành đồng cỏ chăn nuôi và đất trồng thức ăn cho gia súc.

- Chặt phá rừng khiến hơn 10 000 loài động và thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao.

- Việc xây dựng các đập thủy điện khiến môi trường sinh thái rừng A-ma-dôn bị phá hủy và nhiều người dân địa phương bị mất nhà cửa.

4. Các biện pháp bảo vệ thiên nhiên trong rừng A-ma-dôn

- Thiết lập các cơ sở để lực lượng chức năng có mặt thường trực quản lí hoạt động khai thác khoáng sản, tịch thu hàng hóa bất hợp pháp, kiểm soát các tuyến đường và bảo vệ rừng.

- Xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên.

- Giáo dục người dân cách làm nông và chăn nuôi bền vững.