Những câu hỏi liên quan
Mika Kagehira
Xem chi tiết
Serena
22 tháng 12 2018 lúc 15:23

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947, giữa lúc phải tập trung chuẩn bị chiến dịch Thu Đông, nhằm đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp. Cuốn sách gồm có 6 phần: 1. Phê bình và sửa chữa; 2. Mấy điều kinh nghiệm; 3. Tư cách và đạo đức cách mạng; 4. Vấn đề cán bộ; 5. Cách lãnh đạo; 6. Chống thói ba hoa. Cho đến nay, những chỉ dạy của Bác vẫn được coi là kim chỉ nam cho cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình và trong cách ứng xử với Nhân dân và trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Bác Hồ viết: “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm… Chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người".

Như vậy, tức là nhìn vào việc làm để đánh giá, nhận xét phải trung thực, thẳng thắn, không thêm, không bớt. Khi đánh giá, phải đánh giá cả ưu điểm, khuyết điểm, để người được đánh giá thấy yếu mà khắc phục, thấy mạnh mà cố gắng. Nếu chỉ phê bình mà không nhìn nhận những gì cán bộ, công chức làm được, thì bản thân họ dễ sinh buồn phiền, chán nản, ít nhiều làm họ nhụt ý chí phấn đấu.
Bác còn dạy “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Đây là việc làm này phải thường xuyên, liên tục để bản thân có thể nhìn nhận được điểm yếu, điểm mạnh của mình, biết mình đang “đứng” ở đâu về chuyên môn, năng lực. Đánh giá trên thực tế, có một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự áp dụng lời dạy này như một cẩm nang để tự phấn đấu, không tự kiểm điểm, phê bình bản thân trước, mà chỉ đổ trách nhiệm và phê bình người khác, điều đó làm cán bộ, công chức không thể “trưởng thành” trong công việc.
Tổng kết thực tiễn trong hoạt động của cán bộ, đảng viên, Bác chỉ ra rằng, khi thực hiện bất kỳ nhiệm vụ gì cũng phải trả lời câu hỏi “Vì ai mà làm? Đối với ai phụ trách?". Cán bộ, công chức làm vì Nhân dân, do vậy phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Nhân dân có trình độ hiểu biết khác nhau, phải tìm đủ cách giải thích cho Nhân dân hiểu. Mọi việc làm phải hợp với trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Từ đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. chứ không được “đứng trên” mà làm theo cách hạ lệnh, cách cưỡng bức. Bác cũng chỉ ra, muốn thực hiện tốt nhiệm vụ thì phải sâu sát quần chúng, tránh bệnh hình thức, xa rời nhân dân.

Từ thực tiễn, Bác đã đúc kết “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Tổ chức thực hiện công việc thành hay không đều phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ. Người nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", chính là quan điểm về con người với vai trò vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy, đối với công việc, phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm công việc đã làm một cách tường tận, gốc rễ; tỉ mỉ, cẩn thận, toàn diện trước khi thực hiện công tác mới.

Người cũng nêu lên phận sự của người cán bộ, đảng viên là phải trọng lợi ích của Đảng hơn hết, phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đảng viên và cán bộ phải có “đạo đức cách mạng" là Nhân, Nghĩa, Chí, Dũng, Liêm.

Người chỉ rõ bổn phận của người đảng viên là suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng.  

Bác cũng dạy cán bộ, công chức về cách nói, cách làm. Như đã nói ở trên, Người đã chỉ ra, làm việc gì cũng phải xác định “vì ai mà làm”. Theo đó, trong cách viết không nên dài dòng, rỗng tuếch, không có nội dung, nhưng cũng không dùng danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây để quần chúng không hiểu. Bác chỉ ra căn bệnh theo "sáo cũ", đó là làm việc thiếu chuẩn bị, nội dung mênh mông, không thiết thực, công thức máy móc, nói, viết những từ hoa mỹ, quần chúng không hiểu, không đem lại kết quả.

Cán bộ, công chức muốn Nhân dân hiểu, phải học cách nói của quần chúng, dùng những lời lẽ giản đơn, thiết thực, dễ hiểu. Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm làm theo lời kêu gọi của mình. Khi chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, thì chớ nói, chớ viết. Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận.

Trước khi đi xa, trong Di chúc, Bác Hồ cũng không quên dặn lại một cách tâm huyết: Mỗi đảng viên, cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Nói theo Bác, người cán bộ công chức không có phận sự nào khác ngoài phận sự phục vụ nhân dân vì dân mà làm các việc.

Tư tưởng phục vụ nhân dân là tư tưởng cốt lõi trong đạo đức, nhân cách của Người.
Để nâng cao đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, công chức, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần chống các căn bệnh như: xa rời thực tiễn của đội ngũ cán bộ công chức, nhất là thái độ vô cảm, lạnh lùng thiếu trách nhiệm của người cán bộ công chức trước những yêu cầu của người dân; Bệnh quan liêu, hình thức, coi trọng thủ tục hơn hiệu quả cũng đang có nguy cơ lan rộng trong cán bộ công chức... Những lời dạy sâu sắc của Bác về đạo đức của người cán bộ công chức vẫn luôn là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cán bộ, công chức sinh thời cũng như hiện tại.

Bình luận (0)
Serena
22 tháng 12 2018 lúc 15:25

Cái gì không có lợi cho địch là có lợi cho ta”[1].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Mười khó khăn của Pháp” bút danh C.B, đăng trên Báo Nhân dân, số 27, ngày 01 tháng 10 năm 1951.

Chiến dịch Biên Giới năm 1950 kết thúc, ta giành thắng lợi lớn, diệt trên 8.000 quân địch thu nhiều vũ khí, trang bị, giải phóng vùng biên giới rộng lớn từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn) mở rộng giao lưu quốc tế, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền chủ động chiến lược đẩy mạnh tiến công và phản công. Thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn ở chính quốc và trên chiến trường Đông Dương; nhưng vẫn tập trung tăng quân, thay tướng, xin thêm viện trợ của Mỹ, xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc hòng duy trì sự đô hộ lâu dài trên đất nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng tình hình quốc tế, nội tình nước Pháp và cục diện chiến trường Việt Nam một cách khách quan, toàn diện, biện chứng, khoa học và chỉ ra mười khó khăn mà Pháp phải đối diện; từ đó Bác có những chỉ đạo chiến lược xác đáng nhằm giành thế chủ động tiến công liên tục trên chiến trường, quyết đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ.

Thực hiện chỉ đạo của Người, quân và dân ta đã đoàn kết, hợp đồng, phát huy thế mạnh của ta, khoét sâu điểm yếu của địch với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Thấu triệt tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong phân tích, đánh giá tình hình địch, ta để lựa chọn hình thức tác chiến phù hợp luôn được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt nhằm phát huy mọi ưu thế, sức mạnh tổng hợp, tranh thủ thời cơ để quyết chiến, quyết thắng với kẻ thù, hạn chế thấp nhất thương vong cho bộ đội, cùng toàn Đảng, toàn dân giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, thống nhất đất nước.

Trong giai đoạn hiện nay, cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức tốt diễn tập với tinh thần thi đua “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, không để Tổ quốc bị động bất ngờ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Ngày 02 tháng 10

Địch công thành, ta công tâm, phải lấy được lòng dân”[2].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại cuộc họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, Báo Nhân dân, đăng số 2750, ngày 02 tháng 10 năm 1961.

Đây là sự thể hiện nhất quán quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc phải luôn luôn lấy dân làm gốc, phải thấy được sức mạnh vô địch từ nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng qua”. Đây cũng là đặc trưng tiêu biểu về bản chất của Quân đội ta – quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về việc luôn coi trọng và đặt lên hằng đầu sức mạnh của quần chúng nhân dân, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” là một bộ phận của tiềm lực chính trị tinh thần; dựa vào nhân dân, được nhân dân ủng hộ, che chở giúp đỡ; đồng thời, huy động và khai thác tiềm lực to lớn từ nhân dân, sức mạnh vô địch của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhờ xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, biết khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, căm thù giặc và sức mạnh của lòng dân, các lực lượng cách mạng đã tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức, thực hiện Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám địch, liên tục vây ép, tiến công địch cả về chính trị, quân sự, tiêu hao từng bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh, “căng, kéo, kìm, giữ địch“, buộc chúng phải phân tán đối phó, góp phần làm cho địch sa lầy bị động, tạo thế cho cấp trên và cùng bộ đội chủ lực ta tiêu diệt địch, giành thắng lợi. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thế trận lòng dân” tiếp tục được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chăm lo xây dựng và củng cố vững chắc; kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, được dân tin, dân mến, dân yêu, dân giúp đỡ là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” và niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân.

Ngày 03 tháng 10

Về mặt văn hóa, thì dù ai mù quáng đến mấy cũng phải thấy rằng chế độ xã hội chủ nghĩa của ta thắng lợi vẻ vang.

Chúng ta có quyền tự hào, nhưng chúng ta không được tự mãn”[3].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Một thắng lợi vẻ vang”, bút danh T.L, đăng trên Báo Nhân dân, số 2389, ngày 03 tháng 10 năm 1960.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập (02/9/1945), Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu sự nghiệp giáo dục, đào tạo và xây dựng nền văn hoá mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nền văn hoá do nhân dân lao động sáng tạo, giữ gìn và hưởng thụ – đó là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiến bộ, hiện đại, nhân văn và không ngừng phát triển.

Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị, sức mạnh và sự cần thiết của việc coi trọng xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, nghị quyết nhằm xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển văn hoá đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội để hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước. Quan tâm xây dựng nền văn hóa VIệt Nam tiên tiến, đậm bản sắc dân tộc; không ngừng phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, nếp sống văn hóa, văn minh; cải thiện nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, huy động, khơi dậy tinh thần giữ gìn, sáng tạo văn hóa của cộng đồng xã hội. Qua đó, đã không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống và làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân; các nền tảng giá trị đạo đức được quan tâm gìn giữ, các qui tắc ứng xử văn hóa được hình thành, từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trên địa bàn dân cư.

Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nêu cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, truyền thống tốt đẹp của quân đội, trở thành một giá trị văn hoá quân sự với những nét đặc trưng tiêu biểu được thể hiện tập trung trong 10 lời thề danh dự của người quân nhân cách mạng, 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân. Thực hiện chất lượng, hiệu quả phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, gắn với phong trào thi đua Quyết thắng, các chương trình hành động và được cụ thể hóa thành cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội”, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.

Ngày 04 tháng 10

Cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp. Phải cần mà phải cẩn nữa”[4].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Thiếu óc tổ chức – một khuyết điểm lớn trong các ủy ban nhân dân”, bút danh Chiến Thắng, đăng trên Báo Cứu quốc, số 58, ngày 04 tháng 10 năm 1945.

Đây là thời điểm đất nước mới giành được độc lập, chính quyền cách mạng mới được thiết lập, phải đối diện với một khối lượng lớn công việc cần được giải quyết, đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp phải dốc hết tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm, song cần phải có sự tổ chức khoa học, hiệu quả. Do vậy, Bác đã viết bài để căn dặn đội ngũ cán bộ các cấp chỉ làm việc chăm chỉ là chưa đủ, mà phải làm việc khoa học, mới mang lại hiệu quả cao trong tổ chức, sắp xếp công việc của chính quyền mới.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” và “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Thấu suốt quan điểm của Người, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của dân tộc, chế độ; là khâu then chốt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nên đã dày công tổ chức, đào tạo, rèn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, chất lượng ngày càng cao, là nhân tố quan trọng đóng góp vào những thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Đội ngũ cán bộ quân đội được giao trọng trách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý từ cấp cơ sở đến toàn quân; là lực lượng nòng cốt trong thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, nhân tố có vai trò quyết định trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội ta. Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã có nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Quân đội làm nòng cốt để toàn quân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Chất lượng toàn diện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, tác phong, phong cách lãnh đạo, chỉ huy của đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng lên, có phương pháp, tác phong công tác khoa học, luôn nêu cao tính đảng, tính chiến đấu, nói và làm theo chỉ thị, nghị quyết. Luôn chủ động, sáng tạo, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có ý thức kỷ luật cao, tận tâm, tận lực với công việc, gương mẫu cả trong lời nói và việc làm, có khả năng xử lý những vấn đề phức tạp do thực tiễn đặt ra, có uy tín cao trước bộ đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Ngày 05 tháng 10

… Không biết tự quyết, tự định cái gì, như vậy làm sao công tác phát triển được. Có mắt ta phải trông, có óc ta phải nghĩ, có tay ta phải làm chứ.

Nhưng tự động không phải tự tiện”[5].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Tinh thần chủ động trong Ủy ban nhân dân”, bút danh Chiến Thắng, đăng trên Báo Cứu quốc, số 59, ngày 05 tháng 10 năm 1945.

Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh  bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; từ đây chính quyền cách mạng được thiết lập từ Trung ương đến cơ sở, song chính quyền mới phải đối diện với muôn vàn khó khăn, gian khổ, đặc biệt về công tác cán bộ vừa thiếu, vừa yếu, kinh nghiệm trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Để khắc phục, chấn chỉnh những bất cập, khó khăn trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài để huấn thị đội ngũ cán bộ các cấp.

Cán bộ và công tác cán bộ luôn là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, với việc ban hành nhiều quyết sách quan trọng về cán bộ và công tác cán bộ; kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng Phần lớn đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, lối sống giản dị, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, hoàn thành nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đến nay vẫn còn một số hạn chế, bất cập, nhất là việc điều động, bổ nhiệm vi phạm nguyên tắc, lợi ích nhóm, tệ nạn chạy chức, chạy quyền diễn ra ở một số cơ quan, địa phương… gây bức xúc trong dư luận.

Công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng; một nội dung cơ bản của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì nhiệm vụ xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Quân đội càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch; có tinh thần trách nhiệm cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tận tâm, tận lực với công việc, gương mẫu trong cả lời nói và việc làm, khả năng tư duy sáng tạo, năng lực lãnh đạo, chỉ huy giỏi; trình độ, kiến thức chuyên môn ngày càng cao; có uy tín trong tập thể; sức khỏe và độ tuổi phù hợp, luôn gần gũi, sâu sát với bộ đội, làm nòng cốt trong xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, đảm bảo cho Quân đội không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Ngày 06 tháng 10

Muốn cho danh chính, lợi chính, thì Danh, làm sao cho dân tộc mình có danh với thế giới, và Lợi, làm thế nào cho tranh được lợi với thế giới”[6].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Nói chuyện với đại biểu các báo chí về nội trị, ngoại giao nước nhà trong những ngày vừa qua”, Người nói ngày 06 tháng 10 năm 1945; đăng trên Báo Cứu quốc, số 61, ngày 08 tháng 10 năm 1945.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời – một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, những năm tháng đầu sau ngày độc lập, chúng ta gặp phải muôn vàn khó khăn, thách thức, cùng lúc phải đối phó với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; chính quyền mới được thành lập chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu và những tàn dư của xã hội cũ còn sót lại trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó, có hiện tượng một số ít cán bộ ham muốn danh, lợi nên chưa thật sự tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết, bài nói giải thích về Danh và Lợi cho cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành để họ nắm rõ, hiểu đúng và hành động đúng. Theo Bác, Danh – nghĩa là phải làm tròn bất kỳ nhiệm vụ nào nhân dân giao phó thì đều là danh dự, là vẻ vang, là anh hùng, nếu phải hy sinh tính mạng thì tiếng thơm lưu truyền mãi mãi. Về Lợi, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên đối với công việc hằng ngày “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh” và việc gì dù lợi cho mình, phải xem xét có lợi cho nước hay không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước thì quyết không làm. Khi phải cân nhắc, chọn lấy một, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, thì phải chọn lợi ích chung, phải hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung, vì lợi ích cho nước tức là lợi ích cho mình, lợi ích chung của đất nước của dân tộc có thắng lợi thì lợi ích riêng của gia đình thắng lợi. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân – căn bệnh luôn đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc, chính là cha đẻ của tư tưởng danh lợi chỉ muốn làm ông này, ông khác, bà này, bà khác. Tư tưởng danh lợi lại đẻ ra trăm thứ bệnh.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng đã luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và nhân dân lên trên, lên trước, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, luôn đồng cam, cộng khổ với quần chúng nhân dân, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” thực sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết đã cùng với toàn dân, toàn quân làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa đà vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi…. làm giảm sút lòng tin đối của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ, cần phải kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết ở đơn vị, say mê, gắn bó hết mình với công việc, chức trách, nhiệm vụ được giao; có ý thức tiết kiệm của công, không tham nhũng, lãng phí; công minh, chính trực, thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực; không quản hy sinh, gian khổ; luôn chấp hành và gương mẫu đi đầu trong mọi công việc; sẵn sàng đến những nơi khó khăn vất vả, từ biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa; có lối sống trung thực, giản dị, gần gũi, thương yêu đồng chí, đồng đội; có tinh thần đoàn kết, bao dung, độ lượng, vị tha. Gương mẫu trong mọi lúc, mọi nơi, luôn đi đầu gương mẫu trong thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội, là chỗ dựa tin cậy của bộ đội.

Ngày 07 tháng 10

Không phải đã hòa bình thì thỏa mãn mà còn phải đấu tranh phức tạp, gian khổ, lâu dài. Cách đấu tranh có thay đổi là đấu tranh trong hòa bình, mà đấu tranh trong hòa bình còn gian khổ phức tạp hơn thời kỳ chiến tranh”[7].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội nghị cán bộ ngày 07 tháng 10 năm 1954.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (07/5/1954), Hiệp định Geneve được ký kết, cuộc chiến tranh kết thúc. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Geneve, sau hai năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy nguỵ quyền, nguỵ quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào chiến đấu chống xâm lược mới. Miền Bắc ra sức củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước; miền Nam từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa từng phần, đánh bại cuộc chiến tranh một phía của Mỹ.

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là khát vọng lớn lao của nhân dân ta, là yêu cầu của lịch sử giao phó, đó cũng đồng thời là nhiệm vụ của toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Bởi thế, để Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò tiền phong, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, tất yếu đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải nghiêm túc tự chỉnh đốn, nâng cao tinh thần đạo đức cách mạng, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng thoả mãn, công thần…

Thấu triệt lời Bác dạy, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc sự nghiệp cách mạng là lâu dài, khó khăn và phức tạp; do vậy đã nghiêm túc đề cao tự phê bình và phê bình, chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm, xác định đường lối, chủ trương đấu tranh cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn giành được những thắng lợi vẻ vang có ý nghĩa lịch sử to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thành công trong sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua, vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Bác Hồ sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc. Nhớ lời Bác dạy năm xưa, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn đề cao cảnh giác cách mạng, thi đua huấn luyện giỏi, sẵn sàng chiến đấu cao, rèn luyện nghiêm, dân vận tốt, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diên, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, quyết không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, nhân dân tin tưởng, giao phó, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới.

Ngày 08 tháng 10

Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cân nhắc cán bộ miền núi”[8].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi nói chuyện tại Hội nghị tổng kết cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi. Bác nói ngày 08 tháng 10 năm 1961; báo Nhân dân, đăng số 2757, ngày 09 tháng 10 năm 1961.

Thực hiện Chỉ thị số 156-CT/TW ngày 25 tháng 8 năm 1959 của Trung ương Đảng về việc tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi miền Bắc nước ta, sau hai năm triển khai thực hiện quyết liệt, Cuộc vận động đã đạt được kết quả bước đầu rất quan trọng, đánh thức tiềm năng, thế mạnh của một vùng miền núi rộng lớn có vị trí, ý nghĩa chiến lược quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở miền núi phát triển chưa đều, một số chính sách cụ thể thích hợp với miền núi chưa được quy định, công tác tư tưởng trong hợp tác xã chưa được chú ý, công tác quản lý hợp tác xã còn rất lúng túng. Nhiều nơi chi bộ, ủy ban hành chính và các đoàn thể nhân dân chưa được vững mạnh. Có những xã chưa có chi bộ đảng. Lực lượng cán bộ các dân tộc nói chung thiếu và yếu. Do vậy, Bác đã có những chỉ đạo rất sát đúng, kịp thời về mọi mặt; trong đó, cần phải hết sức chú trọng đến công tác cán bộ – cái gốc của mọi công việc.

Thực hiện huấn thị các Bác, trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Nghị quyết số 24 khóa IX của Đảng về công tác dân tộc đề ra mục tiêu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có phẩm chất chính trị, năng lực công tác và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; có cơ cấu, số lượng cán bộ phù hợp trong hệ thống chính trị”. Thực hiện chính sách về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số đã thực sự được nâng cao cả về chất lượng và số lượng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Đặc biệt, công tác đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đã từng bước hoàn thiện, chuẩn hóa, nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, góp phần tích cực vào sự phát triển của các địa phương miền núi, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi với miền xuôi.

Thấu triệt lời Bác dạy, Quân đội đã chủ động làm tốt việc tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số từ sớm, thông qua việc mở các lớp thiếu sinh quân để đào tạo con em đồng bào dân tộc thiểu số từ các bậc học phổ thông, đào tạo tại các trường sĩ quan, cao đẳng, trung cấp. Đã có hàng vạn lượt con em đồng bào dân tộc thiểu số trên khắp cả nước được nuôi dưỡng, đào tạo trong môi trường quân đội; nhiều đồng chí trở thành cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành trung ương và địa phương, trở thành tướng lĩnh trong quân đội và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đúng như tâm nguyện của Bác kính yêu.

Ngày 09 tháng 10

Chúng ta phải hết sức khôn khéo, đứng trước bất kỳ kẻ thù nào, người cách mạng cũng phải hiểu rõ chúng là ai; mạnh yếu chỗ nào, tranh thủ và cô lập ai?…”[9]. 

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời các vấn đề đối ngoại của chính phủ mới với Đoàn đại biểu công nhân Thành Hoàng Diệu ngày 09 tháng 10 năm 1945 tại Bắc Bộ phủ, do ông Trần Danh Tuyên dẫn đầu.

Lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta và trí tuệ, tư duy sắc bén của Hồ Chí Minh đã nhắn nhủ Người phải kiên trì thực hiện quan điểm “thêm bạn, bớt thù” trong mọi suy nghĩ và hành động. Bài học ấy một lần nữa được phát huy, góp phần cô lập kẻ thù, đồng thời tận dụng sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Thấu triệt lời Bác dạy, vận dụng, phát triển quan điểm, tư tưởng của Người về bạn, thù, Đảng, Nhà nước ta đã khởi sướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đồng bộ đất nước đạt được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hơn ba mươi năm đổi mới trên đất nước ta đã có vô số cái mới không ngừng nảy nở, vun trồng, phát triển trực tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: mới trong tư duy lý luận; mới trong chủ trương, đường lối của Đảng; mới trong lao động sản xuất; mới trong sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của quần chúng nhân dân;… Những cái mới được hòa quyện giữa truyền thống văn hóa dân tộc với giá trị thời đại để trở thành căn cứ chủ yếu của chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm về “đối tác, đối tượng” là một trong những cái mới làm nên bước đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi, góp phần khẳng định trí tuệ, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam – một đảng cộng sản chân chính, xứng đáng là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn xác định rõ kẻ thù, đánh giá đúng ưu điểm, thế mạnh của địch để kìm chế, phát hiện khuyết điểm, sơ hở của địch để khoét sâu, đánh hiểm; phát huy sức mạnh của ta, kết hợp giữa đánh với đàm, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, hạn chế thấp nhất thương vong cho bộ đội và nhân dân. Tăng cường đối ngoại quân sự song phương và đa phương; đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, kết nghĩa đúng với tinh thần “thêm bạn, bớt thù” để góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hoà bình vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày 10 tháng 10

Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự, an ninh, làm cho Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”[10].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết đăng trên Báo Nhân dân, số 236, từ ngày 09 đến ngày 10 tháng 10 năm 1954, với bút danh “C.B”.

Mùa thu lịch sử năm 1945, Hà Nội lần đầu tiên đón Bác Hồ về đọc Tuyên ngôn độc lập sau ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Mùa thu lịch sử năm 1954, Hà Nội đón Bác Hồ về Thủ đô sau ngày giải phóng. Từ đó đến nay, Hà Nội tiếp nối truyền thống Thăng Long – Đông Đô ngàn năm, ngày một xứng đáng là trái tim cả nước, xứng với danh hiệu Thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình…

Trong chiến đấu, Hà Nội lập nên nhiều chiến công hào hùng, với cuộc chiến đấu tháng Chạp năm 1946 cùng toàn dân đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp; với trận Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm tháng chạp năm 1972 buộc đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam… Trong 2 cuộc chiến tranh chống xâm lược, Hà Nội là địa danh thiêng liêng, là hồn thiêng sông núi, nơi cả nước gửi gắm niềm lạc quan tin tưởng, ý chí tự hào, là điểm tựa tinh thần cho quân và dân cả nước hăng hái đánh giặc.

Trong xây dựng hòa bình, Hà Nội đang từng bước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Hà Nội đổi mới từng ngày, phấn đấu văn minh hiện đại trên cái nền truyền thống ngàn năm văn hiến, tạo nên gạch nối hài hòa Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Hà Nội vinh dự là một trong 17 thành phố, thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.

Hà Nội là trái tim của cả nước, trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. Cả nước quan tâm theo dõi, ngưỡng mộ từng bước đi lên của Thủ đô. Vì thế Thủ đô Hà Nội có vinh dự, tự hào to lớn, nhưng đồng thời có trách nhiệm hết sức nặng nề. Hà Nội phải luôn luôn gương mẫu, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta, nên “Thủ đô ta” phải phấn đấu để “thành một Thủ đô bình yên tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”. Ba chữ “Thủ đô ta”chứa đựng biết bao tình cảm sâu nặng, gần gũi và sát sao của Người đối với Hà Nội, dành riêng cho Hà Nội, chỉ riêng Hà Nội mới có được vinh dự ấy.

Ngày 11 tháng 10

Khuyết điểm nặng nhất của cán bộ và nhân dân là chủ quan”[11].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Phải thi đua chống hạn, diệt sâu, để nắm chắc vụ mùa thắng lợi”, bút danh Trần Lực, đăng trên Báo Nhân dân, số 1672, ngày 11 tháng 10 năm 1958.

Trong hoàn cảnh ngành nông nghiệp đứng trước nhiều thách thức, hạn hán, sâu bệnh, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất tại nhiều địa phương trên cả nước. Qua nghe báo cáo và thực tế kiểm tra, Bác nhận thấy nhân dân và các cán bộ thấy lúa tốt thì ít săn sóc, thấy sâu nhiều thì ngại khó, đấy là một sự chủ quan hết sức nguy hiểm, Người đã viết bài để kịp thời nhắc nhở, phê bình và chấn chỉnh cán bộ và nhân dân không được chủ quan coi thường sâu bệnh, hạn hán để có được vụ mùa thắng lợi.

Nếu cán bộ, đảng viên mắc căn bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn đến đề ra các chủ trương, quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành xã hội xa rời thực tiễn; đường lối, chủ trương, quyết sách không phản ánh lợi ích của tập thể, không thể hiện được ý chí của quần chúng nhân dân. Mặt khác căn bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ khiến con người ta tuyệt đối hóa vai trò cá nhân, biện pháp mệnh lệnh hành chính, hành động bất chấp quy luật khách quan. Đặc biệt đối với những người có chức, có quyền mắc bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng chức quyền, mất dân chủ, thờ ơ với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng… Những hệ lụy tiêu cực từ căn bệnh chủ quan, duy ý chí đối với đời sống kinh tế-xã hội là hết sức khó lường.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thường xuyên rèn luyện cho mình phương pháp, tác phong công tác khoa học, thiết thực và hiệu quả, để từ đó không mắc vào căn bệnh chủ quan, duy ý chí. Mặt khác, phải đề cao ý thức tự chủ, phát huy tốt dân chủ, thực hiện tốt quyền dân chủ của quần chúng nhân dân. Đề cao dân chủ sẽ giúp cho cán bộ, đảng viên chống được căn bệnh gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, phát huy tốt tính tích cực, năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và trí tuệ của tập thể trong thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta phải luôn rèn luyện và thực hành tốt tính sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể, phải mắt thấy, tay sờ, tai nghe… nhất là trong chiến đấu. Có như vậy mới biết địch, biết ta, mới đưa ra được cách đánh phù hợp nhằm tiêu diệt, tiêu hao nhiều nhất vũ khí, sinh lực địch, hạn chế thấp nhất thương vong cho bộ đội và nhân dân để giành thắng lợi trong chiến đấu cũng như trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn sắc son lời thề danh dự “… thắng không kiêu, bại không nạn, gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí, “nhiệm vụ vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mãi mãi xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngày 12 tháng 10

Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”[12].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Sao cho được lòng dân”, bút danh Chiến Thắng, đăng Báo Cứu quốc, số 65, ngày 12 tháng 10 năm 1945.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc ta; song Chính phủ mới gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Thù trong, giặc ngoài, điên cuồng quấy phá, tìm mọi cách lật đổ chính quyền non trẻ của chúng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Sao cho được lòng dân” để căn dặn các cán bộ, đảng viên, bộ đội, công an của chính quyền mới phải luôn đặt quyền lợi của nhân dân lên trên, lên trước, việc gì có lợi cho dân phải kiên quyết làm, làm cho bằng tốt. Theo quan điểm của Bác, một nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân phải coi việc phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích chính đáng cho nhân dân là mục tiêu, phương hướng hoạt động của mình. Người chỉ rõ: Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân.

Thấu triệt quan điểm của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán và triển khai quyết liệt, đồng bộ chủ trương xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được mở rộng và phát huy, một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được mở rộng, thực hiện. Đáng chú ý là hệ thống pháp luật được đổi mới, bổ sung và tăng cường, chất lượng các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được nâng cao; phương thức quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước sâu sát, thực tế hơn, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong xã hội, các hoạt động của ngành tư pháp, toà án, viện kiểm sát có nhiều tiến bộ… Việc đổi mới nhà nước đúng định hướng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lành mạnh hoá các mặt văn hoá, xã hội, giữ vững sự ổn định lâu dài của đất nước.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam – một đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, đã không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng, hết sức giúp đỡ dân, bảo vệ dân, giúp dân xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng chống thiên tai, thảm hoạ, cứu hộ, cứu nạn, đồng hành cùng ngư dân nơi đầu sóng ngọn gió, nơi phên dậu của Tổ quốc… đã góp phần cùng với cả hệ thống chính trị xây dựng “Thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc, giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới.

Ngày 13 tháng 10

Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau”[13].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi các giới công thương Việt Nam”, ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên báo Cứu quốc, số 66, ngày 13 tháng 10 năm 1945.

Ngay sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng còn non trẻ vừa mới ra đời, giữa những bộn bề công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành thời gian để gặp gỡ giới công thương Việt Nam nhằm tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của họ đối với việc khôi phục, phát triển kinh tế đất nước. Trong Thư Người đã phân tích, luận giải thấu đáo mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích của tập thể với lợi ích của cá nhân. Tính nguyên tắc trong giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, hết lòng hết sức vì nhiệm vụ cách mạng, vững vàng trước khó khăn, thử thách, tỉnh táo, sáng suốt trong công danh, tiền tài, địa vị là những chuẩn mực cơ bản đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải hiểu và làm cho đúng.

Thấu triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, Đảng, Nhà  nước ta luôn coi đây là vấn đề có tính nguyên tắc; đó là tất cả vì con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Kết hợp hài hoà, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích là nhằm phát huy nhân tố con người, nguồn lực con người, tiềm năng con người cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh và nguồn lực quốc gia của sự phát triển bao gồm cả nhân lực, vật lực, cả nội lực và ngoại lực, cả nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần, truyền thống và hiện đại, trong đó nguồn lực con người là trung tâm và quan trọng nhất.

Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, luôn đặt lên hằng đầu chức năng, nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, thể hiện ở ý thức, trách nhiệm chính trị và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ theo cương vị, chức trách của từng cá nhân. Chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng, của quân đội và quy định của đơn vị, thường xuyên nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, sống trong sạch, giản dị, khiêm tốn, chính trực, vượt qua mọi cám dỗ tầm thường về vật chất, danh vị… luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên, lên trước, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Ngày 14 tháng 10

Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu”[14].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Lời cảm ơn đồng bào công giáo”, Người viết ngày 14 tháng 10 năm 1945, ký tên Hồ Chí Minh, đăng trên báo Cứu quốc, số 70, ngày 18 tháng 10 năm 1945.

Trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, tư tưởng đoàn kết tôn giáo là bộ phận không thể tách rời. Đoàn kết tôn giáo cũng chính là đoàn kết dân tộc. Người đã tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo, lấy đó làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện đoàn kết tôn giáo qua lý giải: Các tôn giáo chân chính đều có hy vọng giải thoát con người, mong muốn con người được tự do, sung sướng, hạnh phúc: Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha, Đức Giê-su hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc, Khổng Tử sinh ra cũng là để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng; tín đồ tôn giáo nhìn chung đều là những người lao động bị chế độ cũ áp bức, bóc lột, họ có quyền mưu cầu hạnh phúc, họ là những người yêu nước và cũng là lực lượng không thể thiếu của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân với tư cách là chủ thể của cách mạng.

Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng, nhà nước ta kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo hù hợp tình hình thực tiễn. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào của nhân dân; đồng thời xác định: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo”. Điều này được hiến định tại Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và tại Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.

Sự thật hiển nhiên là thế, nhưng các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tự do, tín ngưỡng, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, kích động,… hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có thể khẳng định, không một quốc gia đa tôn giáo nào trên thế giới mà các tôn giáo lại sống bình đẳng như ở Việt Nam, một đất nước không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Đó là sự thật! Tự nó bác bỏ mọi sự xuyên tạc, kích động hòng chia rẽ tôn giáo với chính quyền, chia rẽ những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy năm xưa, cán bộ chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo; căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm, tình hình địa bàn đóng quân để xây dựng kế hoạch, đề ra nhiều giải pháp cụ thể, phù hợp, tích cực tổ chức thực hiện công tác tôn giáo, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh vùng đồng bào có đạo trên địa bàn cả nước một cách cụ thể, thiết thực. Trong nội bộ từng cơ quan, đơn vị, cấp uỷ, chỉ huy luôn quan tâm xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết, giúp đỡ nhau trên tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, nghĩa đồng đội giữa cán bộ, chiến sĩ theo tôn giáo và không theo tôn giáo đều chung sức, đồng lòng xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 15 tháng 10

Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”[15].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Dân vận”, ký tên X.Y.Z, đăng trên Báo Sự thật số 120, ngày 15 tháng 10 năm 1949.

Giữa lúc công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta ở vào thời điểm vô cùng cam go, quyết liệt, đòi hỏi phải huy động sức mạnh của cả dân tộc. Nhận thức sâu sắc và đánh giá cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Dân vận”. Đây là “cẩm nang” kịp thời chỉ dẫn một cách đầy đủ và sâu sắc cả về mục đích, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, tính hiệu quả… của công tác dân vận đối với cán bộ, đảng viên; tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể.

Thấu triệt tư tưởng chỉ đạo của Bác, mọi cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta luôn xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vì nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, từ đó luôn chủ trương phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”“nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, để xây dựng nên khối đại đoàn kết và không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Ngành Dân vận và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận đã luôn chủ động tham mưu cho Đảng và Nhà nước những chủ trương, chính sách lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác Dân vận, xây dựng “thế trận lòng dân”ngày càng vững chắc. Cán bộ làm công tác Dân vận luôn tích cực học tập, nghiên cứu nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; phong tục, tập quán của từng địa phương, từng dân tộc; âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch để tuyên truyền, vận động cho quần chúng nhân dân thông suốt, hiểu được quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyết tâm cùng với toàn Đảng, toàn quân nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách giành được những thắng lợi vẻ vang trong kháng chiến, thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh; luôn được dân mến, dân tin, dân giúp đỡ. Mối quan hệ quân – dân trở thành mối quan hệ mẫu mực được ví như máu thịt, như cá với nước, trở thành lời thề danh dự của người quân nhân cách mạng. Cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn tích cực hưởng ứng và làm tốt các công tác dân vận, tham gia xoá đói, giảm nghèo, chung sức xây dựng nông thôn mới. Các phong trào, mô hình: “Cảnh sát biển đồng hành cùng ngư dân”, “Tết quân dân”, “Xuân biên cương, Tết hải đảo”, “Tết Biên phòng, ấm lòng dân bản”… đã, đang được triển khai quyết liệt với tình cảm, trách nhiệm cáo của cán bộ, chiến sĩ toàn quân, góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước manh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Ngày 16 tháng 10

Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”[16].

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới”, đăng trên báo Nhân Dân, số 5299, ngày 16 tháng 10 năm 1968. Đây là bức thư cuối cùng Người gửi cho ngành giáo dục nước nhà.

Sau khi dựng lên sự kiện “Vinh Bắc Bộ” (1964), từ năm 1965, đế quốc Mỹ sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc; miền Bắc từ thời bình chuyển sang thời chiến, nhằm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Giữa muôn vàn khó khăn, dù tuổi Bác đã cao, sức Bác cũng đã yếu nhiều, nhưng Người vẫn luôn dành cho ngành giáo dục nước nhà sự quan tâm ần cần, đặc biệt, với bao tâm huyết, kỳ vọng để chuẩn bị tốt nhất nguồn nhân lực cao cho công cuộc kiến thiết nước nhà, sau khi Nam – Bắc sum họp một nhà.

Thực hiện lời dạy của Bác, đội ngũ nhà giáo, cán bộ, người lao động, học sinh, sinh viên, học viên ngành Giáo dục và Đào tạo không ngừng nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mỗi nhà giáo luôn là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo, chung sức, chung lòng xây dựng một nền giáo dục vững mạnh, đã đào tạo cho đất nước nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, xứng đáng với nhận định của Bác về nghề dạy học: “Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang”.. Lớp lớp các thế hệ học sinh, sinh viên, học viên… luôn tâm niệm sâu sắc lời Bác dạy năm xưa, đoàn kết, thi đua: “Học, học nữa, học mãi”, “Học để lập thân, lập nghiệp”… vươn lên giành nhiều thành tích cao trong học tập, rèn luyện. Hằng năm, các đội tuyển học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi cấp châu lục và thế giới đều đạt giải cao, góp phần nâng cao uy tín, vị thế nước nhà trên trường quốc tế, thiết thực góp phần chuẩn bị tốt để đất nước hội nhập, phát triển trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Các học viện, nhà trường, giáo viên, học viên trong quân đội đã luôn chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, thi đua “Dạy tốt, học tốt, phục vụ tốt” đào tạo kịp thời, có chất lượng hàng chục vạn cán bộ có chất lượng tốt cung cấp cho các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đáp ứng kịp thời trong điều kiện chiến tranh cũng như giai đoạn hiện nay. Đối với các cơ quan, đơn vị, học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, đã cụ thể hoá thành  các phong trào thi đua: “Huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu cao”, “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”… góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

          Ngày 17 tháng 10

Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[17].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số 69, ngày 17 tháng 10 năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ cán bộ có tư tưởng công thần, hách dịch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát, quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân, gây bức xúc dư luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện, Người viết bài đấu tranh, lên án gay gắt và nghiêm khắc chấn chỉnh.

Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi con người, quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản, thiết thực của con người.

Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống về mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công dân, như tâm nguyện của Bác kính yêu.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong Quân đội luôn tập trung lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện. Thường xuyên quan tâm, chăm lo bảo đảm tốt nhất đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; coi đây là trách nhiệm, là tình cảm với bộ đội; hết lòng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng và thương yêu cấp dưới như “chân với tay”, để bộ đội yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ. Kiên quyết chống biểu hiện xa rời cấp dưới, quan liêu, hách dịch, vô cảm… thật sự làm cho cấp dưới kính trọng, tin tưởng, học tập và noi theo, góp phần giữ gìn và phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” – một nét đẹp văn hóa độc đáo, đặc sắc của Quân đội trong thời đại Hồ Chí Minh.

Ngày 18 tháng 10

Đồng bào chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ, phải tranh đấu đến cùng để mưu tự do, hạnh phúc cho dân tộc”[18].

Đây là lời của Hồ Chí Minh trong “Thư gửi đồng bào tỉnh Lào Cai”, ngày 18 tháng 10 năm 1945, báo Cứu quốc, đăng số 71, ngày 19 tháng 10 năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Trước vận mệnh của chính quyền cách mạng được ví như “ngàn cân treo sợi tóc”; trên cương vị Chủ tịch nước, với bộn bề lo lắng, nhưng Bác vẫn dành sự quan tâm ân cần, sâu sắc đến đồng bào các dân tộc miền núi và chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc, làm tiền đề quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng to lớn, để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta xác định, đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Sứ mệnh lịch sử của Đảng là thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn nhằm chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, chính đáng nhưng mang tính tự phát của quần chúng thành sự tự giác, có tổ chức trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Chính sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đoàn kết và xây dựng tinh thần đoàn kết đã trở thành lời thề danh dự của người quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, nhờ xây dựng tốt tinh thần đoàn kết gắn bó đồng chí, đồng đội, cấp trên với cấp dưới như ruột thịt, lúc thường cũng như lúc ra trận; đoàn kết quân với dân như cá với nước và đoàn kết quốc tế trong sáng, thuỷ chung… đã tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta. Thực tế đã chứng minh, ở đâu, khi nào mà cấp uỷ, chỉ huy các cấp quan tâm chăm lo lãnh đạo xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết, thì cơ quan, đơn vị đó luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao và ngược lại. Do vậy, đặt ra yêu cầu với cấp uỷ, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải nêu cao tinh thần đoàn kết, gắn bó, chung sức, đồng lòng xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 19 tháng 10

Từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam ta thật là anh hùng”[19].

Đây là lời khẳng định và khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phụ nữ Việt Nam trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm lần thứ 20, Ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20/10/1946-20/10/1966), tổ chức ngày 19 tháng 10 năm 1966.

Cả cuộc đời phấn đấu hy sinh cho dân tộc, giải phóng phụ nữ luôn là khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh và Người luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ ở thế kỷ XX. Nhưng đồng thời Bác cũng luôn thức tỉnh phụ nữ muốn được giải phóng, chị em cũng phải đấu tranh, không ngừng học hỏi, đoàn kết, làm trọn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Đã có rất nhiều phụ nữ nước ta được Bác khen tặng bởi những thành tích trong học tập, rèn luyện và đóng góp trên mọi lĩnh vực… trong chiến tranh đã xuất hiện nhiều những tấm gương phụ nữ chiến đấu anh dũng, kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; tiêu biểu như: Chị Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Lý, Nguyễn Thị Định… xứng đáng là con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu, với lời khen tặng của Bác Hồ kính yêu.

Vinh dự, tự hào với lời khen tặng của Bác kính yêu, tự hào về truyền thống hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữu nước của dân tộc,  Phụ nữ Việt Nam không ngừng thi đua học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chính trị, năng lực chuyên môn phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, là những nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của xã hội. Nhiều chị em đã trở thành những nhà khoa học, văn nghệ sĩ tài năng, những vị lãnh đạo có giữ cương vị cao trong các cơ quan Đảng và Nhà nước từ cơ sở đến Trung ương, xứng đáng với sự quan tâm và tin tưởng của Bác Hồ.

Phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, khắc ghi lời Bác dạy, phụ nữ Quân đội tiếp tục nêu cao tinh thần, trách nhiệm, chủ động, sáng tạo, vượt mọi khó khăn, học tập, lao động sáng tạo, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để xứng đáng với lời khen tặng của Bác kính yêu.

Ngày 20 tháng 10

Làm sao cho được 50 người hiểu rõ, còn hơn là được 500 người hiểu lờ mờ”[20].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Lời căn dặn các đội viên tuyên truyền xung phong”, ngày 20 tháng 10 năm 1945, đăng trên Báo Cứu quốc, số 73, ngày 22 tháng 10 năm 1945.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên truyền cách mạng là một hoạt động thống nhất trên ba mặt. Một là, nhận thức đúng đắn về mục đích và vai trò của tuyên truyền. Hai là, phương pháp tuyên truyền. Ba là, những yêu cầu đối với người làm công tác tuyên truyền. Cả ba mặt trên luôn phải thống nhất, liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó nhận thức mục đích đóng vai trò chủ đạo, chi phối trực tiếp đến mọi phương pháp hoạt động tuyên truyền. Những lời khuyên và chỉ bảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như phong cách nói và viết của Người đã vượt qua giới hạn của kỹ năng sử dụng ngôn ngữ đơn thuần, trở thành một nghệ thuật giàu khả năng chinh phục, thấm sâu vào lòng người đọc, người nghe để đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền học tập và làm theo.

Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác tuyên truyền đối với toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Thông qua công tác tuyên truyền đã góp phần làm cho chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đồng thời, đây cũng là một vũ khí sắc bén đấu tranh chống lại các quan điểm thù địch, sai trái, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; góp phần quan trọng giáo dục, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng.

Công tác tuyên truyền trong Quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư các nguồn lực để tiến hành ở tất cả các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Bám sát sự phát triển của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, nhất là những sự kiện chính trị thời sự nổi bật, được đông đảo dư luận trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm để tiến hành tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền được biên tập công phu, chặt chẽ, phản ánh tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học công nghệ và môi trường… Các nội dung được luận giải, thuyết phục bằng những cơ sở lý luận, thực tiễn sát đúng, có tính chiến đấu cao, dự báo và định hướng tư tưởng rõ ràng. Phương pháp truyền tải đã có nhiều đổi mới, kết hợp sử dụng các thiết bị, phương tiện hiện đại và tăng cường đối thoại, giao lưu trực tiếp với người tiếp nhận thông tin. Vì vậy, đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ngày 21 tháng 10

Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”[21].

Ngày 21 tháng 10 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Tổng thống Niu Di lân, ngài Mali Môđibô Câyta đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người đã nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường. Trong bài nói, Hồ Chí Minh đã khẳng định những công lao to lớn của các thầy cô giáo đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

“Tôn sư trọng đạo” là truyền thống quý báu, là bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta, được vun đắp qua nhiều thế hệ, góp phần tạo nên nền văn hiến Việt Nam với bề dày hàng nghìn năm lịch sử. Từ xưa đến nay, nghề giáo luôn được xã hội tôn vinh là nghề cao quý; cha ông ta từng nói: “Không thầy đố mày làm nên”. Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Nhiệm vụ...

Bình luận (0)
Mika Kagehira
22 tháng 12 2018 lúc 15:29

thanks~~

Bình luận (0)
thanh dat nguyen
Xem chi tiết
Minh Hiếu
30 tháng 10 2021 lúc 5:14

Internet – one of the greatest innovations of our times – has become a familiar term in our daily life. Besides its undeniable positive influences, it is necessary to acknowledge the disadvantages it brings. The most predominant drawback that people need to consider is security issues. As the Internet is widely used in different aspects of life such as business or education, users’ privacy can run a risk of invasion by hackers, causing their personal information to be leaked. Furthermore, in the virtual world where people are connected with each other and access is unlimited, it is a good opportunity for scammers and cyber criminals to approach their “preys”. Another bad side of this tool is the spread of false or inappropriate information. Every day or even every hour, a number of information is freely uploaded and shared without any restrictions.As a result, many people exploit this to distribute fake news for their own advantage, which can have a negative impact on a large scale. Moreover, the availability of entertainment on the Internet also makes unhealthy materials more accessible than ever, leading to a rise in behavioral problems, especially juvenile delinquency. Last but not least, Internet can be seen as additive. Nowadays, people are likely to spend hours surfing the web, it can be at class, it can be at work or at lunch, anywhere and at any time. Sometimes it may become a distraction, causing them to work ineffectively. Watching your favorite film or finishing work – that’s definitely a hard question. Besides, some people are so addicted that they live in the virtual world more than in the real world. They tend to express their feelings and opinions freely on social network while being rather reserved in the outside world and lacking interaction with others around. To put it briefly, much as the Internet offers a wide range of benefits in different fields, it has the cost that needs careful consideration.

Bình luận (0)
Kiều Đông Du
Xem chi tiết
Đỗ Khánh Chi
17 tháng 10 2017 lúc 14:52

Chọn D.

Trong các vấn đề trên, các vấn đề thuộc về công nghệ gen là 1, 2, 3, 4, 5

6 là vai trò của nhân bản vô tính (công nghệ tế bào)

Bình luận (0)
Nguyễn Phương Thảo B
Xem chi tiết
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Minh Nguyệt
Xem chi tiết
Martha_Ghost
29 tháng 1 2019 lúc 20:44

Tk mik nha

         

Bình luận (0)
Martha_Ghost
29 tháng 1 2019 lúc 21:00

“Rừng vàng biển bạc” là câu tục ngữ mà cha ông ta dùng để ca ngợi sự giàu có của thiên nhiên. Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi chúng ta. Bởi vậy bảo vệ rừng chính là chúng ta đang bảo vệ, giữ gìn lấy cuộc sống của mình.

Rừng ở đây được hiểu là một quần thể cây cối sinh sống, nảy nở trên một vùng đất rộng lớn, cao hơn so với đồng bằng. Rừng được trồng nhiều loại cây, có thể cây lấy gỗ hoặc cây che bóng mát. Ở Việt Nam, diện tích đồi núi chiếm ¾ so với mặt bằng chung, vì vậy có thể nói nước ta rất đa dạng và phong phú về nguồn tài nguyên rừng.

Chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta

Rừng vẫn được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên lưu trữ một lượng gỗ lớn của đất nước cũng như giúp ngăn ngừa các hiện tượng của tự nhiên như thiên tai, bão lũ, sạt lở đất, cát lấn.

Hằng ngày chúng ta hít vào khí O2 và thải ra khí CO2. Và nơi cung cấp khí O2 chính là cây xanh. Cây xanh giúp lọc khí bẩn, điều hòa môi trường, mang lại sự trong lành cho con người. Bởi vậy mới có câu nói “Rừng là lá phổi xanh của nhân loại”. Đúng vậy khu rừng có màu xanh để điểu hòa, thanh lọc không khí độc hại, giúp đảm bảo sức khỏe của con người không bị suy giảm.

Rừng được tạo nên từ cây, hàng nghìn, hàng vạn cây mọc san sát nhau. Lượng khí O2 mà rừng cung cấp hằng năm nhiều khi chưa đủ cho loài người. Tuy nhiên khi rừng vẫn được bảo vệ thì cuộc sống con người vẫn được bảo vệ.

Thực trạng thiên tai hằng năm diễn ra ở nước ta rất nhiều như bão lũ, sạt lở đất, cát lấn. Nếu không có hệ thống rừng phòng hộ, rừng ngập mặn được chăm sóc hằng năm thì liệu rằng con số thiệt hại do thiên tai mang đến không dừng lại ở mức đã thống kê. Nhờ có rừng mà ngăn chặn được dòng nước lũ, ngăn chặn cát xâm chiếm đồng bằng. Có thể nói rừng chính là bùa hộ mệnh, giúp cho đời sống con người luôn được bình an.

Hằng năm, lượng gỗ mà rừng cung cấp không đếm hết. Sản lượng gỗ quý ngày càng gia tăng, giúp tạo ra nhiều sản phẩm mỹ nghệ, điêu khắc tinh xảo, tuyệt đẹp. Hơn hết rừng còn là nơi trú ngụ, sinh sống của các loài động vật hoang dã. Chúng xem rừng chính là ngôi nhà bình yên nhất,

Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống mỗi người nhưng hiện nay tình trạng rừng xuống cấp, cháy rừng, đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng đang diễn ra ngày càng trầm trọng. Chính những hành động này đã dẫn đến việc rừng bị suy thoái. Có thể rất nhiều người không lường trước được hậu quả nặng nề khi phá rừng bừa bãi như vậy.

Trái đất đang ngày càng nóng lên, băng tan ra, cát tặc xâm lấn đã gây ra bao nhiêu bất an cho con người. Nếu như ý thức của người dân về bảo vệ rừng không được nâng cao thì chắc chắn sẽ còn nhiều thiệt hại lớn hơn nữa.

Vào mùa khô, tình trạng cháy rừng diễn ra tràn lan khiến cho tài nguyên gỗ bị mất đi rất nhiều, dẫn đến hiện tượng xói mòn đất, phủ xanh đồi trọc đang dần bị mất đi. Bởi vậy ý thức của mỗi người về bảo vệ rừng cần thiết phải được nâng cao. Đó cũng chính là trách nhiệm của chúng ta, để bảo vệ chính chúng ta.

Như vậy, bảo vệ rừng, xây dựng và phát rừng hiện nay đang là một bài toán cấp bách cho các cơ quan chức năng cũng như của người dân đang rất nan giải. Mỗi người cần thiết phải xây dựng cho mình ý thức bảo vệ rừng, cũng như là đang bảo vệ chính cuộc sống của mình

Bình luận (0)
Đỗ Quyên
Xem chi tiết
💢Sosuke💢
21 tháng 5 2021 lúc 20:17

Thành đạt tức là làm được một cái gì có ích cho mọi người, cho xã hội, được xã hội thừa nhận ? Đúng vậy, con người rất muốn người ta thành đạt vì khi đạt đến mục đích mà mình muốn, cái giá phải trả cho những “ước muốn” trên có lẽ các bạn sẽ không bao giờ muốn trả, trừ khi bạn sinh ra là cậu ấm cô chiêu trong nhà siêu quan. Nhưng khi ta xác định được mục đích chúng ta cần làm gì để thành đạt thì chúng ta phải tự nhủ mình rằng " Muốn thành đạt thì ta phải trả một cái giá không hề rẻ " Khi ta thành đạt không những ta cảm thấy hạnh phúc, vui mà mọi người cũng vui cho mình vì trong lớp người của hộ cũng có những người mình mình." Đây là một chân lý đặc biệt của tôi ! 

Bình luận (13)

"Thành đạt tức là làm được một cái gì có ích cho mọi người, cho xã hội, được xã hội thừa nhận ?" Câu nói này nếu được suy luận một cách đơn giản thì một số người sẽ cho rằng đúng . Bởi vì họ đã thành đạt , thành công trong công việc để khiến cho mọi người , cho xã hội phải thừa nhận điều đó có ích . Tuy nhiên , câu nói trên cũng có một số phản bác của mọi người . Thành đạt là do chúng ta tự làm và tự tạo nên , đó không phải là làm cái gì đó có ích cho người khác và được người ta công nhận thì đó được gọi là thành đạt . Có vô số người đã thất bại trong công việc nhưng họ vẫn được người khác công nhận được sự cố gắng , nỗ lực của họ và đó họ vẫn là người thành đạt . " Không có con đường nào dài quá đối với kẻ bước đi thong thả, không vội vàng. Không có cái lợi nào xa xôi quá đối với những kẻ kiên nhẫn làm việc . " - câu nói của La Bruyere là một trong những câu nói khiến em phải cảm phục . Không có cái vấp ngã một lần thì con người ta sẽ mất đi lòng kiên nhẫn và từ đó họ sẽ không trở nên kiên trì . Nếu ta cố gắng thì sẽ có được sự thành đạt chứ không nhất thiết là phải làm điều có ích cho người khác mới gọi là sự thành đạt . Ta làm cho ta để ta có ngày mai , ta cứ chăm chăm vào câu nói này sẽ đúng nên tôi làm theo . Tôi làm điều có ích cho người ta thì tôi thành đạt . Bạn không nhất thiết phải đặt ra một số vấn đề để chúng ta biết ta nên làm thế nào để có được sự thành đạt . Ta vừa làm cho mình , vừa làm cho người khác thì lúc đó " Trời ơi , tôi đã thật sự trở thành một con người thành đạt . " Bạn có thể tự hào nói lên điều đó khi bạn cảm thấy mình thực sự đã thành đạt .

P/s :  " Làm việc đừng quá trông đợi vào kết quả, nhưng hãy mong cho mình làm được hết sức mình . " - Anita Hill . Hãy nghĩ đến những điều tích cực và đừng nghĩ đến những điều tiêu cực thì bạn sẽ thành đạt .

Bình luận (4)
Kậu...chủ...nhỏ...!!!
21 tháng 5 2021 lúc 21:05

"Thành đạt tức là làm được 1 cái dì có ích cho mọi người,cho xã hội,được xã hội thừa nhận?".Qủa nhiên là thế,ai ai cũng muốn thành đạt để có 1 mục đích nhất định,có thể là làm cho xã hội ngày càng văn minh?Đây cũng là 1 câu hỏi lớn trong đầu tất cả mọi người.Có thể các bạn cũng tự biết là phải đi theo con đường mình chọn.Ta phải hiểu con đường ấy sẽ đúng đắn.Muốn thành đạt các bạn sẽ phải trả một cái giá,cái giá ấy sẽ không hề rẻ chút nào.Nhưng bù lại,khi thành đạt,ta sẽ nhận được một niềm vui bao la.Không chỉ mình ta mà tất cả mọi người sẽ thừa nhận điều này.Mỗi khi thành đạt,ta sẽ hiều đây chính là 1 chân lí sẽ theo ta trọn đời.

có sai sót gì em xin cô và mọi người đánh giá và chỉ ra ạ.Em xin cảm ơn

Bình luận (6)
Phạm Quang Long
Xem chi tiết
Phạm Quang Long
12 tháng 3 2019 lúc 19:42

anh chị suy nghĩ gì về câu nói "Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc"


Đề này đâu khó. Kiếm sẵn nguyên 1 bài làm gì. Bạn động não đi ! Mình chỉ phân tích cho bạn dễ hiểu. Bài này bạn không nói nó thuộc dạng văn gì? Nghị luận xã hội hay văn học. Nếu xã hội thì nêu dẫn chứng các nhà khoa học, bác học thành công trên thế giới. Còn văn học thì trích những câu nói của Bác Hồ về việc học, kiếm thêm những danh ngôn thế giới nói về kiến thức con người.

Bình luận (0)
Dàn ý nghị luận về câu ngạn ngữ "Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc"

A. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghi luận:

Học tập là quá trình có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người bởi "Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc" (Ngạn ngữ Gruzia).Trong quá trình học tập, mỗi học sinh phải ý thức được mục đích của quá trình học tập đó.

B. Thân bài

a. Giải thích khái niệm

* Giải thích thuật ngữ "hạt giống":Theo nghĩa đen, hạt giống là yếu tố dung để ươm mầm nên cây cối. Để cây cối tốt tươi hoa thơm trái ngọt thì phải có hạt giống tốt.

Tác giả vận dụng hình ảnh hết sức ấn tượng "học tập là hạt giống của kiến thức":Ý nói rằng để có được kiến thức, con người phải học tập. Học tập để thu nhận kiến thức làm nền tảng cơ bản dẫn tới sự thành công.

* Vì sao Học tập là hạt giống của kiến thức

Quá trình học tập mà trước hết học tập trong nhà trường sẽ giúp con người kiến thức cơ bản của cuộc sống trên nhiều lĩnh vực: tự nhiên, xã hội...Những kiến thức đó sẽ làm cơ sở nảy nở và tiếp thu được những kiến thức thuộc các lĩnh vực khác chuyên sâu và chuyên ngành hơn.DC: Hầu hết những người nổi tiếng đều phải trải quá quá trình học tập cần cù, chịu khó trên ghế nhà trường như Lê-nin, Bác Hồ, hay những tấm gương các nhà bác học vĩ đại Anh-xtanh, Lô-mô-nô-xốp...Học tập ở đây còn bao gồm quá trình tự học, tự học là hành trình của cả đời người. Mỗi chúng ta phải tự gieo những hạt giống kiến thức trong suốt quá trình của đời mình.Điều đó, lí giải tại sao nhiều văn hào, nhiều bác học không tốt nghiệp đại học hoặc thậm chí cả trung học mà vẫn đạt được nhiều thành tựu vĩ đại trên lĩnh vực khoa học.DC: Bill Gtes – ông vua máy tính của thế giới đã bỏ đại học năm thứ 3 để lập công ti máy tính riêng. Nhưng trong quá trình đó, ông đã miệt mài trong thư viện đọc sách và học tập. Sự luôn hoài nghi và mong ước khám phá đã giúp ông sáng tạo ra phần mềm lớn nhất hiện nay.

* Vì sao kiến thức là hạt giống của hạnh phúc:

Mỗi người có thể có những quan niệm khác nhau về hạnh phúc, nhưng hạnh phúc là đích đi tới của mỗi người trong cuộc sống.Có kiến thức, con người mới có thể hành động để tiến tới hạnh phúc, bởi tri thức là sức mạnh.Có kiến thức, con người mới hiểu biết để cảm nhận và trân trọng những thành quả của cuộc sống, tự mình tìm kiếm hạnh phúc.DC: là một nhà tư tưởng vĩ đại suốt đời phấn đấu cho lí tưởng, bằng sự hiểu biết của mình về hiện thực thế giới, C. Mác đã dạy con hiểu về Hạnh phúc trong thời đại bấy giờ: Hạnh phúc là đấu tranh.

= > Câu nói chỉ ra mối quan hệ nhân quả: quá trình - kết quả của con đường học tập. Bắt đầu từ học tập, con người sẽ thu nhận được nhiều thành quả trong đời sống.

b. Bàn luận mở rộng vấn đề, nêu ý nghĩa của câu danh ngôn:

Câu danh ngôn đã chỉ ra một hành trình đi đến hạnh phúc trong đó học tập là con đường, đích đến hạnh phúc cho mỗi học sinh chúng ta.Vấn đề là lựa chọn cách học phù hợp để có thể gieo giống tốt đẹp vào trong tâm hồn, chứ không phải cách học gạo, học chống đối, máy móc, đọc chép lấy điểm cao tức thời.Muốn thế, cách dạy trong nhà trường cũng phải phù hợp để làm sao không truyền thụ kiến thức cho học sinh không thụ động. Ngoài học tập để lấy kiến thức, giảo viên còn phải chú ý dạy kĩ năng sống thích hợp để học sinh có thể tìm thấy hạnh phúc trong đời sống của mình.

C. Kết bài

Khẳng định lại vai trò của học tập.Định hướng của học sinh trong học tập để thu nhận được kiến thức, đạt được thành công và hạnh phúc.

Nghị luận về câu ngạn ngữ “Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc”

 

Bài làm

Học tập là mục tiêu suốt đời của mỗi người. Chúng ta hiện nay đang phấn đấu xây dựng một xã hội học tập, nhằm phát huy tối đa khả năng cũng như quyền được được học tập của mỗi người. Có một câu ngạn ngữ của người Gruzia "Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc".

Thật vậy! Kiến thức không phải tự nhiên mà có. Đó là tích lũy hiểu biết của nhân loại, của cộng đồng, của nhiều thế hệ thông qua quá trình học tập mà thành. Học tập chính là quá trình tích lũy kiến thức! Câu ngạn ngữ trên đã có một ví von rất hay khi đưa ra hình ảnh "hạt giống" để nhấn mạnh tầm quan trọng của học tập. Hạt giống sẽ nảy nở phát triển thành cây. Quá trình học tập cũng như gieo hạt giống cho trí não và tâm hồn. Kiến thức nhiều cũng là kết quả tích lũy hạt giống để hứa hẹn một mùa bội thu. Kiến thức tốt, đầy đủ, phong phú sẽ gieo những hạt giống cho tương lai của mỗi con người. Tuy nhiên cần phải hiểu thấu đáo hơn câu ngạn ngữ này ở ý nghĩa bao quát của nó. Hạt giống chuẩn bị không tốt, cây sẽ phát triển èo uột, kiến thức nông cạn ít ỏi khiến chúng ta gặp vô vàn khó khăn, lúng túng và bế tắc trong công việc. Và một người học tập được điều hay lẽ phải thì cũng chính là tích lũy hạt giống tốt, còn kiến thức lệch lạc, sai lầm thì như hạt giống xấu làm hủy hoại tư duy và tâm hồn, sẽ không tránh khỏi gây tác hại cho đời sống. Cũng như vậy, chỉ trên nền tảng một kiến thức đầy đủ mới có tương lai hạnh phúc. Bởi vậy, trong đời sống, ta gặp không ít những tấm gương đổi đời nhờ kiến thức.

Tuy nhiên mối quan hệ học tập – kiến thức – hạnh phúc không chỉ được hiểu đơn giản một chiều mà cần phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng nhân quả của nó. Ông bà ta cũng thường nói "gieo nhân nào, gặt quả ấy" như một cảnh tỉnh. Xét mối quan hệ trong ba yếu tố học tập – kiến thức – hạnh phúc cũng cần được nhìn nhận từ nhiều phía. Học tập đúng đắn, có phương pháp, có chọn lọc thì mới có kiến thức tốt, đa dạng, phong phú. Kiến thức tốt cần gắn với nhận thức đem kiến thức ấy phục vụ cho xã hội và cho bản thân, không chỉ là những kiến thức thu lượm được theo kiểu thực dụng ích kỷ, vì nếu hạnh phúc của ta lại đem bất hạnh cho người khác thì cũng là chứng tỏ ta đã tích lũy hạt giống xấu cho chính ta, gieo mầm bất hạnh cho kẻ khác.

Vì vậy, mỗi chúng ta phải xác định động cơ học tập đúng đắn, thu lượm kiến thức bổ ích, hướng tới hạnh phúc của cộng đồng hài hòa với hạnh phúc cá nhân. Có như vậy mới thật sự trở thành con người có ích cho xã hội.

Bình luận (0)
Phạm Quang Long
12 tháng 3 2019 lúc 19:43

hay bạn ơi

Bình luận (0)
(:)
Xem chi tiết