Tại sao thúy kiều ở lầu ngưng bích lại nhớ đến trương sinh
Trong phần 2 của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tại sao tác giả lại để cho Kiều nhớ người yêu rồi mới nhớ đến cha mẹ? Từ đó em học được ở nhân vật Thúy Kiều phẩm chất tốt đẹp nào? Em vận dụng phẩm chất đó như thế nào trong cuộc sống?
Em tham khảo:
Kiều nhớ Kim Trọng trước theo quan niệm xưa là không hợp lí nhưng thực ra lại là rất hợp lí vi khi bán mình để chuộc cha và em thì Thúy Kiều đã báo đáp được phần nào công ơn sin thành . Trước hết, Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.
Đong vai Thúy Kiều kể lại cảnh vật , nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ người thân khi ở lầu Ngưng Bích
Trong văn bản Kiều ở lầu Ngưng Bích:
Chi tiết khi nhớ đến chàng Kim Trọng thì Thúy Kiều nhớ đến cảnh gì trước?
những câu thơ thể hiện nỗi nhớ của thúy kiều trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích . qua đó em thấy thúy kiều là người ntn
Em tham khảo:
Trong cảnh ngộ cô đơn, bẽ bàng, Thúy Kiều nhớ về người yêu và cha mẹ. Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau vì những lý do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nếu như khi nhớ Kim Trọng, Kiều hồi tưởng lại những kỉ niệm trong tình yêu, thì khi nhớ tới cha mẹ lòng nàng lại đầy xót xa và lo lắng. Những từ ngữ hình ảnh thể hiện điều đó:
- Khi nhớ về Kim Trọng, Kiều nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.” Chữ “tưởng” vừa là nhớ vừa là hình dung, tưởng tượng ra hình ảnh của người yêu. “Dưới nguyệt chén đồng” là đang nhớ về kỷ niệm mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Kiều còn tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng ở quê nhà đang hướng về mình, tin tưởng và chờ mong uổng công vô ích: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”
“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”: Câu thơ có hai cách hiểu
Tấm lòng Kiều nhớ thương Kim Trọng không bao giờ phai mờ, nguôi quên.
Tấm lòng của Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm cho hoen ố, phải gột rửa đến bao giờ cho sạch.
- Khi nhớ về cha mẹ, tác giả dùng từ “xót” để thể hiện tấm lòng xót xa, lo lắng cho cha mẹ của Thúy Kiều. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con trong vô vọng. Nàng xót xa khi nghĩ đến cha mẹ tuổi già sức yếu mà mình không thể ở bên chăm sóc. Không biết giờ đây ai là người chăm lo “quạt nồng ấp lạnh”. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điểm cố Xuân Lai, gốc Tử đều để nói về tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều.
=> Trong cảnh ngộ bơ vơ nơi góc bể chân trời, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng quên đi cảnh ngộ bản thân để nghĩ đến Kim Trọng và cha mẹ. Điều đó cho thấy Kiều là người có tấm lòng thủy chung, người con hiếu thảo, người có lòng vị tha đã trân trọng.
Kể lại truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng lời kể của Thúy Kiều
Tham khảo:
Trước lầu Ngưng Bích, từng ngày, ta cứ ngồi thơ thẩn, mắt nhìn về phía vô định, tựa nhưng chẳng có gì có thể ảnh hưởng đến ta. Khuôn mặt kỳ sắc đượm vẻ buồn khiến cho khu lầu bỏ hoang này càng vắng lặng hơn. Gió thổi làm vài cọng tóc ta khẽ bay, nhưng chẳng làm ta quan tâm như người có thể xác nơi này mà linh hồn đã bay đi đi tìm lối thoát cho sự giam cầm của Tú Bà ở Lầu Ngưng Bích – cái tên thật đẹp nhưng lại khác xa với vẻ ngoài của nó.
Đây là khu lầu bị bỏ hoang nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông là nước. Nó cao ngất, đứng trên lầu như sắp với được Mặt Trăng.Từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy những dãy núi xa xăm ,cồn cát bụi bay mịt mù. Thúy Kiều ta đã quen với việc suốt ngày ở trong cái lầu buồn tẻ, sớm quen với việc trò chuyện cùng cây cỏ hoa lá nơi đây. Hôm nay lại là một ngày mới trôi qua trong lầu Ngưng Bích, mọi thứ dường như chẳng thay đổi kể từ ngày bị Tú Bà giam lỏng nơi đây, ta vẫn phải ở nơi này, gió lạnh lẽo vẫn thổi vào.
Nhớ lúc bị Mã Giám Sinh mua, tủi nhục biết bao, tưởng chừng phải làm vợ người ta, ai ngờ đâu, vừa một khắc, đã phải trở thành con cờ của Tú Bà, giúp mụ kiếm tiền, phải vào chốn thanh lâu mà ta kinh tởm nhất. Ngay cả ta cũng kinh tởm bản thân mình.Nhưng biết làm sao bây giờ,để đổi lấy sự bình yên cho phụ mẫu và em gái, ta đành lòng đem bán tấm thân mình cho người khác. Buồn tủi, cô đơn biết bao nhiêu, một mình trong đêm, hình ảnh người đàn ông mà tôi hằng đêm thương nhớ lại hiện ra trong tâm trí ta.
Nhớ lại đêm cùng đính ước với Kim Trọng, khoảng thời gian ta cùng chàng bên nhau, hạnh phúc biết bao nhiêu. Giờ ngồi nơi này, những kỉ niệm mà ta từng nhớ như in lại như vết dao đâm vào lòng ta, ta đã phụ lời thề với chàng, không còn trong sạch, làm sao dám quay về mà gặp chàng đây. Buồn thương, ta lại nhớ về cha mẹ. Ta nghĩ bây giờ chắc họ lại ngóng chờ con gái nâng niu của họ quay về, nhưng họ nào biết ta đã bị vấy bẩn,đã không có tư cách đoàn tụ sum họp cùng họ.
Ta lại xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu lẽ ra mình phải ở bên để đỡ đần, phụng dưỡng thì nay lại phải xa xôi cách biệt. Ta tự hỏi, không biết giờ đây ai đang chăm sóc cha mẹ, ai là người trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường cho ấm chiếu chăn để cha mẹ được yên giấc ? Kể từ ngày xa cha mẹ đến nay đã mấy mùa mưa nắng. Quê nhà chắc đã nhiều sự đổi thay. Cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, mà con thì lưu lạc xứ người…
Nghĩ đến đây, lòng ta vô cùng đau đớn, nghĩ mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của họ Gió lại thổi vào khiến tóc bay phất phới, ta trông về phía cửa biển. Chiều buông, cả một vùng nước non bát ngát, hoang vắng khiến nỗi cô đơn của ta càng thêm nhiều. Xa xa, thuyền ai thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện. Hãy nhìn lên ngọn thác kia đi, ngọn nước vừa đổ xuống xô đẩy cánh hoa lạc loài tan tác trôi xuôi như cuộc đời ta bị số phận vùi dập đưa đẩy. Ta trông sang nội cỏ, chân mây, mặt đất… Mọi thứ, tiếp nối nhau thành một màu xanh rợn ngợp. Trông xuống mặt duềnh. Ngọn gió thổi mạnh cuốn theo sóng biển ầm ầm, thét gào xung quanh như một dự báo hãi hùng về số phận, cuộc đời mình.
Viết bài văn cảm nhận về nỗi nhớ của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích .
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh
Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Đại thi hào Nguyễn Du là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích " Kiều ở lầu Ngưng Bích" là bức tranh tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều. Đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy xúc động.
Hơn 22 câu thơ lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, man mát, mênh mang lỗi buồn. Hầu như không dòng nào thậm trí từ, hình ảnh, âm thanh trong đoạn thơ không ít nhiều thể hiện tâm trạng của nhân vật chữ tình. Tâm trạng bẽ bàng, buồn nhớ lo lắng khi một mình trước lầu Ngưng Bích nhìn xa.
Bốn câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên quanh lầu cũng là bức tranh tâm trạng.
"Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia".
Hoàn cảnh của Kiều lúc này mông lung bi thảm. Kiều được Tú Bà cho ra ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất bị giam lỏng. Nàng trơ chọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Từ trên lầu cao, nàng ngắm vọng ra bốn phía bát ngát, dãy núi mờ xa, những cồn cát vàng trải dài vô tận… Nhìn lên chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ. Để gợi sự mênh mông hoang vắng rợn nghộp không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng bẽ bàng tội nghiệp của Kiều.
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng".
Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ngọn đèn cảnh người cung thao thức sẻ chia. Một mình với tấm trăng – người bạn gần gũi thân thiết nhất. Trong cảnh ngộ một mình bơ vơ nơi chân trời góc bể, cô đơn tuyệt đối, Kiều càng nhớ tới những người thân yêu. Nỗi nhớ đầu là nỗi nhớ chàng Kim.
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai".
Kiều sót xa hình dung Kim Trọng vẫn chưa biết tin mình bị bán mình chuộc cha, bị đưa đẩy vào góc bể chân trời mà vẫn ngày đêm mong ngóng, chờ đợi mỏi mòn. Nàng thấy mình có lỗi, dằn vặt.
" Tấm son… cho phai". Nàng cho mình bội bạc tình với Kim Trọng, bội ước lời nguyện ước với chàng Kim. Bao nỗi dằn vặt vò sẻ biết khi nào, bao giờ mới nguôi ngoai.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tử đã vừa người ôm
Kiều thương cho cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu, mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông nom.
Thành ngữ " Quạt lồng ấp lạnh", điển cố " sân lai", " gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều, nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Mà sự đổi thay lớn nhất là gốc tử đã vừa người ôm – cha mẹ ngày càng già yếu, cụm từ " cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian cách xa vừa nói sức mạnh tàn phá của tự nhiên, nắng mưa với cảnh vật con người khi nhớ về cha mẹ. Kiều luôn ân hận đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Trong cảnh ngộ " Kiều ở lầu Ngưng Bích" Kiều là người tình thủy chung, hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha. Nỗi nhớ người thân của Kiều được diễn tả qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm lên càng chân thực cảm động.
Sau phút giây trở về với người thân yêu, Kiều đã trở lại với cảnh ngộ chính mình.
Tám câu cuối là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh, mỗi cảnh khơi gợi ở Kiều nỗi buồn khác nhau, những lí do buồn khác nhau, mỗi cặp lục bát tạo thành một cảnh.
" Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"
Đây là bức tranh chiều hôm nhớ nhà. Cảnh chiều hôm muôn thỏa buồn nhớ, lại giữa không gian mênh mông cửa biển chỉ có một cánh buồm thấp thoáng xa xa, cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc lỗi cô đơn buồn nhớ da diết về cha mẹ quê nhà. Đại từ ai sang âm điệu sầu thương. Câu thơ là một câu hỏi tu từ nhân lên như một niềm khao khát hoài vọng chông ngóng.
"Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
Cái nhìn của Kiều hướng về không gian gần hơn, nhìn cánh hoa trôi giữa dòng nước, Kiều lại buồn cho thân phận trôi nổi, vô định, lại sót xa cho số phận của mình. Hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ gợi nỗi thương da diết. Câu hỏi tu từ ở đây như một lỗi băn khoăn tự thương cho bản thân.
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".
Cảnh vật khá ấn tượng, không phải cỏ non xanh tận chân trời đầy sức sống nhưng mà là nộ cỏ rầu rầu, héo úa buồn bã cùng mành xanh trải dài từ mặt đất đến chân mây, càng khiến Kiều thêm vô vọng về cuộc sống tẻ nhạt, khô quạnh ở nơi này, cảnh mờ mịt như tương lai cũng cờ mịt của Kiều.
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi".
Chiều đã muộn, màu sắc như tối hơn, cảnh hiện lên mờ nhạt, âm thanh rộn lên mạnh hơn tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dằn của đời Kiều hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vong với thiên nhiên, Kiều không chỉ buồn mà lo sợ với sóng gió cuộc đời. Sóng gió ở đây là những ẩn dụ chỉ những tai hooaj đang rình dập đổ xuống cuộc đời Kiều. Như vậy cảnh của đoạn thơ cuối được nhìn từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tỉnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông nung đến âu lo kinh sợ. Bốn cặp câu lục bát sử dụng điệp ngữ " Buồn trông – nghĩa là buồn mà nhìn xa " mà không ngóng một cái gì mơ hồ, vô vọng. Điệp ngữ này kết hợp với những hình ảnh các từ láy: Thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm tạo lên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng, điệp ngữ " Buồn trông" tạo âm hưởng trầm buồn là điệp khúc đoạn thơ, điệp khúc tâm trạng.
Đoạn trích với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh phong phú sinh động giữa tả ngoại cảnh, tâm cảnh, tâm trạng Kiều. Bẽ bàng, sót xa, thẫn thờ khi lâm vào cảnh ngộ bơ vơ, bế tắc. Qua đoạn trích người đọc thấy được tấm lòng thương cảm, sẻ chia sót xa của tác giả đối với người phụ nữ tài sắc đức hạnh. Đoạn trích thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
Bài thơ "KOLNB" của ND là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong "Truyện Kiều". Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều. Đặc biệt, từ câu thơ thứ 7 đến câu thứ 14 đã thể hiện đc tình cảm nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Kiều trong những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn thơ nằm ở phần giữa của "Truyện Kiều": "Gia biến và lưu lạc". Sau khi bị lừa gạt, bị "thất thân" với Mã Giám Sinh, rồi lạo bị Tú Bà làm nhục, nàng dùng dao tự vẫn. Nàng đã đc cứu sống, Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngung Bích. Phận gái nơi đất khách quê người, lo âu, bơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ đầy cạm bẫy. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong LNB với bao tâm trạng "bẽ bàng", "chán ngán". Biết lấy ai, cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp sóng dâng lên trong lòng TK. Để rồi Kiều đã quên đi nỗi khổ của bản thân mình và nhớ về người yêu, nàng nhớ Kim Trọng:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ."
Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Theo đạo đức phong kiến thì phải đặt chữ "hiếu" lên hàng đầu nhưng đặt trong cảnh ngộ của Kiều lúc đó thì lại rất hợp lí. Nàng vô cùng đau đớn, xót xa vì mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ với chàng Kim tan vỡ, bị đối xử như một món hàng trong mua bán, xa gia đình, bơ vơ, lưu lạc. Với cha mẹ, dù sao Kiều cũng đã phần nào làm tròn chứ hiếu khi bán mình cứu cha và em. Còn với Kim Trọng, nàng cảm thấy mình là người có lỗi, là kẻ bội tình khi không giứ được lời hẹn ước với chàng. Nguyễn Du cũng đồng tình với mối tình Kim- Kiều nên ông đã để Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau. Cách diễn tả này phù hợp với quy luâtk tâm lí nhân vật, thể hiện rõ sự tinh tế của ngòi bút ND: hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc, hiểu phép biện chứng của tâm hồn, đồng thời cũng cho ta thấy sự cảm thông, yêu thương nhân vật của tác giả.
Thúy Kiều đang nhớ về chàng Kim- người mà mới đây thôi nàng nặng lòng thề. Nàng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc bên người mình yêu thương. Chén rượu thề nguyền dưới ánh trăng giữa nàng với Kim Trọng vẫn còn đang hiện hữu mồm một tromg tâm trí nàng, thế mà giờ đây hai ng đã chia hai ngả.
- em hãy chỉ ra giá trị nhân đạo của truyện kiều
- chỉ ra vẻ đẹp của thúy vân
- chỉ ra vẻ đẹp của thúy kiều
-khung cảnh của lầu ngưng bích
- tâm trạng thúy kiều ở lầu ngưng bích
thật ra mấy cái này có nhiều trên google lắm bạn, thay vì hỏi bạn có thể search ở trên đó luôn
Đặt bản thân mình vào nhân vật Thúy Kiều, em hãy miêu tả nội tâm của Thúy Kiều trong những ngày bị giam ở lầu Ngưng Bích qua 8 câu thơ cuối ở văn bản "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
.
Tìm hiểu trình tự nỗi nhớ của Kiều qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích và trình tự miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân qua đoạn trích chị em Thúy Kiều