Thuyết minh về Văn miếu Xích Đằng ở Hưng Yên
Mk đg cần gấp giúp mk
Thuyết minh về Văn Miếu Xích Đằng Hưng Yên.
"Từđiển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam" thì trên cảnước hiện nay chỉcó 6 văn miếu: Văn miếu Quốc TửGiám, Văn miếu Huế, Văn miếu Hưng Yên, Văn miếu Hải Dương, Văn miếu Bắc Ninh, Văn miếu Đồng Nai. Văn Miếu Hưng Yên còn gọi là Văn miếu Xích Đằng (vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng), nguyên xưa là Văn Miếu của Trấn Sơn Nam (căn cứvào Khánh, Chuông của di tích), nhưng đến năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập thì Văn miếu Hưng Yên thuộc hàngtỉnh.Văn miếu Hưng Yên được khởi dựng từthếkỷXVII và được trùng tu, tôn tạo lớn vào năm KỷHợi, niên hiệu Minh Mệnh thứ20 (1839), đời vua Nguyễn Thánh Tổ(1820 -1840), trên nền của chùa làng Xích Đằng, xã Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động xưa, nay là phường Lam Sơn, thịxã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Dấu tích còn lại đến ngày nay là 2 tháp đá: Phương Trượng Tháp và Tịnh Mãn Tháp. Hiện tại Văn miếu đang thờĐức Khổng Tử, người được suy tôn là "Vạn thếsư biểu", và các chư hiền của nho gia. Cùng thờvới Khổng Tửlà Chu Văn An, người thầy giáo, người hiệu trưởng đầu tiên của Trường Quốc TửGiám. Năm 1992, Văn miếu Hưng Yên được BộVHTT xếp hạng là di tích lịch sử.Ban thờChu Văn An tại Văn miếu Hưng Yên Ảnh: Đức HùngVăn miếu có kết cấu kiến trúc kiểu chữTam, bao gồm: Tiền tế, Trung từvà Hậu cung. Hệthống mái của các tòa được làm liên hoàn kiểu "Trùng thiềm điệp ốc". Mặt tiền Văn miếu quay hướng Nam, cổng Nghi môn được xây dựng đồsộ, bềthế, mang dáng dấp cổng Văn miếu Hà Nội. Phía trong cổng có sân rộng, ởgiữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tảvu, hữu vu. Khu nội tựgồm: Tiền tế, Trung từvà Hậu cung, kiến trúc giống nhau, được làm theo kiểu vì kèo trụtrốn. Toàn bộkhu nội tựVăn miếu tỏa sáng bởi hệthống đại tự, câu đối, cửa võng và hệthống kèo cột đều được sơn thếp phủhoàn kim rất đẹp.Nơi thờĐức Khổng Tửtại Văn miếu Hưng Yên Ảnh: Đức HùngHiện vật quý giá nhất của Văn miếu là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ161 vịđỗđại khoa ởTrấn Sơn Nam thượng ngày xưa (trong đó tỉnh Hưng Yên có 138 vị, tỉnh Thái Bình 23 vị) thuộc các triều đại Trần, Mạc, Lê đến Nguyễn. Học vịcao nhất là Trạng nguyên Tống Trân (người thôn An Cầu, huyệnPhù Cừ) đời Trần; Trạng nguyên Nguyễn Kỳ(người xã Bình Dân, huyện Đông An) triều Mạc; Trạng nguyên Dương Phúc Tư (người xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm) triều Lê. Chức vụcao nhất là tiến sĩ Lê Như Hổ, Quận công triều Mạc. Ngoài ra còn có một sốdòng họđỗđạtcao như họDương ởLạc Đạo (Văn Lâm); họVũ, họHoàng ởÂn Thi; họLê Hữu ởLiêu Xá (Yên Mỹ)...; một sốhuyện có nhiều nhà khoa bảng như: Văn Giang, Ân Thi, Yên Mỹ, Tiên Lữ, Kim Động...Ca Trù là nét văn hóa đặc sắc tại Văn miếu mỗi dịp xuân vềẢnh: Thu HườngVăn miếu xưa kia có 2 mùa lễhội, trọng hội là ngày 10.2 và ngày 10.8 hàng năm. Cứvào các ngày trọng hội, các vịnho học và quan đầu tỉnh phải đến Văn miếu tếlễđểthểhiện nềnếp nho phong, tôn sư trọng đạo, làm gương cho con cháu, cầu mong sựnghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ.Ngày nay, hằng năm cứvào ngày đầu xuân tại Văn miếu có tổchức sinh hoạt văn hóa, đó là tổchức tếlễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễhội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh vềVăn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sựhọc hành ngày càng phát triển. Du khách nước ngoài tham quan một trong 9 tấm bia đá ghi danh các vịđỗđại khoa, hiện còn lưu giữtại Văn miếu Hưng Yên Ảnh: Thu HườngĐểđáp ứng nhu cầu ngày một cao của con người và cũng là hòa đồng với sựphát triển chung của xã hội. Văn miếu Hưng Yên đang được quy hoạch với quy mô khá hoàn thiện với tổng diện tích gần 6 ha. Năm 2004, tỉnh Hưng Yên đã có chủtrương trùng tu, tôn tạo các hạng mục công trình như vốn có của di tích, được phân thành các khu chức năng khác nhau, như: Văn hóa khuyến học, khu Đền Lạc Long Quân, khu văn hóa, khu Chùa Nguyệt Đường, khu HồVăn, Đầm Vạc. Các công trình dần được phục hồi và tôn tạo đểVăn miếu Hưng Yên trong tương lai gần sẽtrởthành một trung tâm khuyến học và điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh Hưng Yên
Thuyết minh về đền thờ Trần Hưng Đạo và miếu Vua Bà
Giúp mk vs, mk đag cần T-T
Miếu Vua Bà nằm ngay bên đền thờ Trần Hưng Đạo, là một di tích được nhiều khách tham quan tới chiêm bái và trải nghiệm. Sau khi chiêm bái xong, du khách sẽ tham quan bến đò cổ trước cửa miếu. Thiên nhiên, cảnh vật nơi đây còn ấm áp và mang màu sắc lịch sử. Theo như tấm bia ghi ở trước cửa miếu Vua Bà, thì nơi đây xưa kia là một bến đò rừng, bên cạnh cây quếch trên bến đò có một bà bán hàng nước phục vụ khách qua sông.
Vào khoảng đầu năm Mậu Tý năm 1288, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã đến bến đò này nghiên cứu địa hình, chuẩn bị thế trận tiêu diệt đạo thủy binh quân xâm lược Nguyên – Mông. Tại đây, Hưng Đạo vương đã được bà bán hàng nước thưa tỉ mỉ, chính xác lịch con nước và địa thế dòng sông, giúp bố trí trận địa cọc và chọn thời điểm quyết chiến. Chiến trận Bạch Đằng đại thắng, Hưng Đạo vương trở lại bến đò tìm bà để tạ ơn, nhưng không thấy, chỉ thấy đống mối đùn lên rất to nơi bà ngồi. Cảm kích trước tấm lòng yêu nước của bà, Hưng Đạo vương đã tâu với vua Trần phong bà làm “Vua Bà” và cho lập miếu thờ tại nơi bà bán hàng bên gốc cây quếch này. Ngày trước, miếu Vua Bà có quy mô rất nhỏ. Sau này, được xây dựng lại khang trang to đẹp hơn.
Ông Ngô Đình Dũng, Phó Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin thị xã Quảng Yên, cho biết: “Miếu Vua Bà được trùng tu xây dựng lại năm 2001. Miếu quay mặt về hướng Tây, gồm bái đường và hậu cung. Phía ngoài, trước nhà bái đường có một bàn thờ bằng đá chạm rồng miệng ngậm chữ “thọ”. Trên mặt bàn thờ là một lư hương lớn bằng đá chạm khắc lưỡng long chầu nguyệt, hai bên khắc hoa văn hình sóng nước, bên cạnh có ống cắm hương lớn bằng đồng. Bái đường có diện tích khoảng 80m2, trang trí đơn giản đầu đao góc mái và đầu kìm ngậm bờ nóc, nhà gồm ba gian hai chái. Hai chái trổ cửa sổ tròn lỗ hoa, ba gian giữa có cửa thượng song hạ bản. Gian giữa bái đường có tượng Tam tòa Thánh Mẫu, đặt một bát hương cộng đồng lớn. Gian phải thờ Chầu Cô gồm ba bức tượng. Hậu cung của miếu có diện tích khoảng 30m2, trong hậu cung có một bệ thờ bằng đá cao 119cm, dài 231cm, rộng 110cm. Trên bệ thờ đặt khám thờ Vua Bà”.
Bà Nguyễn Thị Nét, người trông nom miếu Vua Bà cho biết: “Miếu Vua Bà là nơi được nhân dân đến tham quan nhiều. Đặc biệt là những ngày tháng 3 âm lịch, gắn liền với tục thờ mẫu ở Việt Nam. Cho đến nay, chưa thấy tư liệu nào ghi rõ, cụ thể bà cụ bán hàng nước năm xưa ở bến đò cổ, giúp Hưng Đạo vương dẹp giặc Nguyên - Mông tên, tuổi và nhà ở đâu? Nhưng trong tâm thức của mỗi du khách đều coi bà bán hàng nước đó là một vị thần, đã hóa thân thành một bà lão hiền từ, bán hàng nước bên bến đò, giúp quân dân đánh giặc. Sau khi mất, bà được vua Trần phong làm “Vua Bà”, chuẩn y phụng thờ”.
Năm 1995, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về tham quan di tích lịch sử Bạch Đằng, sau đó đến miếu Vua Bà, Đại tướng có nói: “Sáng kiến của một người dân bình thường cũng có thể làm nên sự nghiệp lớn. Hưng Đạo đại vương đã chắt chiu sáng kiến của nhân dân để làm nên sự nghiệp lớn cho dân tộc”. Câu nói của Đại tướng đã khắc sâu thêm ý chí, tình đoàn kết của muôn người dân Việt trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Đến thăm miếu Vua Bà, du khách còn ngỡ ngàng trước khung cảnh cây quếch cổ, có tuổi đời hơn 700 năm. Trải qua bao thăng trầm của thời cuộc, cây quếch vẫn tồn tại. Cũng theo bà Nết, cây quếch cao khoảng 25m, hoa màu trắng, có quả nhưng quả không ăn được. Có thời gian cây bị mục ở giữa, một số nhà khoa học đã đến nghiên cứu và bảo vệ cây quếch này. Có thể nói, cây quếch nơi bà bán hàng nước năm xưa giúp Hưng Đạo vương đánh giặc giành thắng lợi không chỉ có ý nghĩa về lịch sử truyền thống dân tộc, mà còn có ý nghĩa cả về mặt sinh học, du lịch.
Chị Nguyễn Thị Trà My, du khách ở phường Quảng Yên chia sẻ: “Tôi đến miếu Vua Bà rất nhiều lần. Mỗi lần đến chiêm bái, vãn cảnh miếu và thăm bến đò cổ, tôi lại có một cảm giác khác nhau. Du khách nhiều nơi cũng rất thích đến đây chiêm bái”. Vua Bà là hình tượng tiêu biểu của nhân dân vùng sông nước Bạch Đằng cùng tham gia với vua và quân nhà Trần làm nên chiến thắng Bạch Đằng ngày mùng 8 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), đồng thời là biểu tượng của tình đoàn kết quân dân gắn bó trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lược Nguyên - Mông. Vua Bà là một minh chứng cho tư tưởng quân sự của Trần Hưng Đạo về việc lấy dân làm gốc và thế trận quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.
Hiện tại, miếu Vua Bà nằm trong quần thể di tích quốc gia đặc biệt. Một số năm gần đây, đã có nhiều đoàn khách nước ngoài tới tham quan. Nếu muốn du khách sẽ được thưởng thức các nghệ nhân biểu diễn nghệ thuật “Ba giá đồng” trong miếu. Hy vọng, trong tương lai, miếu Vua Bà sẽ là một trong những di tích lịch sử tạo điểm nhấn cho du lịch Quảng Yên, Quảng Ninh trong những năm tiếp theo.
1. Tên di tích: Đền thờ Trần Hưng Đạo.
Mk cần gấp một bài thuyết minh về văn miếu Mao Điền, bạn nào giúp Mk vs. Cảm ơn!
Tham khảo:
Nằm trên quốc lộ số 5, cách thành phố Hải Dương 15 km, Văn Miếu Mao Điền là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia được xếp hạng. Trong hệ thống văn miếu của cả nước thì Văn Miếu Mao Điền có quy mô và lịch sử lâu đời đứng thứ 2, chỉ sau Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Từ giữa thế kỷ thứ XV, với chủ trương mở mang việc học hành và đào tạo nho sĩ, quan lại…nhà Lê đã cho xây dựng một loạt những trường học (trường quốc lập), trong đó có Văn Miếu Mao Điền. Nơi đây xưa, thuộc tổng Mao Điền, phủ Bình Giang, trấn Hải Dương. Nay thuộc thôn Mao Điền, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ngay từ khi mới xây dựng, Văn Miếu đã là một công trình kiến trúc văn hóa bề thế, uy nghi. Phần chính gồm hai toà nhà lớn 7 gian, mái cong vút, chạm trổ hình rồng , phượng…, áp sát vào nhau. Nhà trong thờ Khổng Tử- ông tổ của nho học. Nhà ngoài là nơi tụ hội bái lễ của các bậc quan trường học giả. Hai bên là hai dãy nhà giải vũ 5 gian đối diện nhau, do nằm ở hai hướng đông và tây nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là nhà Đông vu, Tây vu. Tiếp đến là hai gác chuông xây cất rất hoành tráng. Phía trước là hai hồ nước trong xanh in bóng cây gạo già hàng trăm năm tuổi. Xung quanh là bạt ngàn các loại cây cảnh, cây ăn quả ôm lấy Văn Miếu càng tôn thêm vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch, dịu mát, êm đềm của khu di tích, du lịch nổi tiếng xứ đông.
Xưa kia Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành nên gọi là xứ Đông, đây là vùng “đất học” vì thế triều Lê đã coi đây là một trong những trung tâm văn hoá giáo dục của cả nước, tiến hành tổ chức nhiều kỳ thi hội. Hàng năm đến kỳ thi, sĩ tử ở khắp nơi tề tựu về đây dựng lều chõng kín khắp cả khu cánh đồng Tràn phía trước. Trong số các sĩ tử đó có nhiều người là con dân của Hải Dương đã tham dự và hiển đạt từ chính nơi đây. Trong đó có cả danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà trí tuệ và nhân cách đã toả sáng suốt bao thế kỷ.
Như vậy trong quá trình tồn tại, Văn Miếu Mao Điền từ vị trí là trường học của riêng trấn Hải Dương đã trở thành trường thi của cả vùng, góp phần giáo dục và đào tạo nhân tài cho địa phương và cho cả giang sơn xã tắc. Nơi đây còn nhiều dấu tích của các sĩ tử, danh nhân đã chiếm bảng vàng trạng nguyên trong kỳ thi ở cấp cao hơn. Nhiều người đã vinh hiển đã trở về thăm lại trường học xưa, xúc động viết lên những bài thơ còn in lại trên các bia đá cổ.
Năm 1948 giặc Pháp đánh chiếm Mao Điền, chúng biến Văn Miếu thành khu căn cứ chiếm đóng, phá nhà, xây lô cốt, tường rào kẽm gai xung quanh, tiến hành tàn sát, chém giết những người dân vô tội. Đạn bom và những năm tháng chiến tranh đã tàn phá di tích nặng nề. Từ một di tích lịch sử có thắng cảnh đẹp, Văn Miếu trở thành một nơi hoang phế. Trận bão năm 1973 đã đánh sập 5 gian nhà Giải vũ – Tây vu.
Năm 2002 được sự đầu tư, hỗ trợ của các ban, ngành Trung ương và các cấp Đảng bộ chính quyền tỉnh Hải Dương đã khởi công xây dựng, tu bổ lại Văn Miếu. Sau hơn hai năm nỗ lực thi công, công trình đã khánh thành.
Giờ đây nhìn lại diện mạo rạng rỡ của Văn Miếu, mỗi người dân đều phấn chấn, tự hào. Nền văn hiến ngàn đời của xứ Đông, trung tâm truyền thống văn hoá giáo dục của cả vùng đã được khôi phục. Hàng năm, cứ đến tháng 2 âm lịch, tỉnh Hải Dương lại mở hội Văn Miếu; những người con của quê hương ở khắp nơi lại tề tựu về đây dự lễ hội, báo công, dâng hương tưởng nhớ các bậc danh nhân, tiên hiền của đất nước; chiêm ngưỡng vẻ lộng lẫy uy nghi của một di tích văn hoá như một toà thành cổ mọc lên giữa cánh đồng lúa xanh bạt ngàn của Văn miếu; chắp tay đứng trước các vị vạn thế sư biểu: Khổng Tử, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…lòng càng thêm thành kính khâm phục, quyết tâm noi theo các bậc tiên hiền, tự rèn luyện, học hỏi để trở thành những người con hữu dụng của quê hương, đất nước.
Thuyết minh về Văn Miếu Xích Đằng
Văn miếu Xích Đằng hay còn gọi là Văn miếu Hưng Yên là một di tích quan trọng trong quần thể di tích Phố Hiến. Văn miếu Xích Đằng là văn miếu thuộc hàng tỉnh, được xây dựng vào năm 1832, hiện tại thuộc địa phận thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Trải qua những biến cố lịch sử và sự thay đổi của tự nhiên, Phố Hiến vẫn còn bảo tồn, giữ gìn được hơn 100 di tích lịch sử - văn hóa có giá trị, trong đó có nhiều di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia, các di tích nổi tiếng như: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây ở Xích Đằng.
Nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, văn miếu Xích Đằng được biết đến là một di tích quan trọng nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sở dĩ Văn miếu có tên như vậy là do được khỏi dựng trên đất làng Xích Đằng từ thế kỷ 17 (thời Hậu Lê) với qui mô ban đầu nhỏ, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), triều Nguyễn, được xây dựng lại có quy mô như hiện nay trên nền của chùa Nguyệt Đường( chùa Xích Đằng).
Với hơn 400 năm tồn tại, ghi danh 161 vị đại khoa, văn miếu Xích Đằng đã thể hiện tinh thần hiếu học của con người trên mảnh đất "Nhất Kinh kỳ, Nhì Phố Hiến".
Theo từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương ghi rõ văn miếu Xích Đằng là một trong sáu văn miếu còn tồn tại cho đến ngày nay của đất nước và văn miếu Hưng Yên cũng là một trong hai văn miếu lâu đời nhất (đứng sau văn miếu Quốc Tử Giám).
Các bn giúp mk làm bài văn thuyết minh về con trâu có SD yếu tố miêu tà và biện pháp nghệ thuật đc ko, đg cần gấp, mai ktra r :)))))
''Trâu ơi ta bảo trâu nay.......'' ko biết từ bao giờ người nông dânVN đã quý trâu và gọi trâu tha thiết đến như thế. h/ả ctrâu đã trở nên wen thuộc gần gũi với xóm làng đồng ruộng, quê hương.
Là loài gia suc co ích dược người dân nâng niu, chăm sóc. Với thân hình to chòn. 4 chân chắc chắn như bốn cái cột nhà, vai u thịt bắt sức kéo khoẻ. Bộ lông màu đen dù có mọc dày đến mấy nhưng cũng ko thấu hiểu được sự vất vả của trâu.
Trâu gắn bó với nông dân tần tảo sớm khuya, những buổi trưa hè, hay mùa đông lạnh giá. trâu vẫn cần cù nhẫn lại mải miết cày kéo xe như một lao động chính trong gia đình. Đền mùa gặt người và trâu hăm hở đón những bông lúa vàng. Trâu đi trước người đẩy theo sau.
Con vật mà người nông dân yêu quý nhất, kí uc tuổi thơ của chung ta. ai cũng có 1 thời chăn trâu cắt cỏ. chăn trâu , ngồi trên lưng trâu thổi xáo thả diều. rồi thoả thích tắm mát ở ngay dòng sông quê nhà. h/ả đó đã trở thành kỉ niệm ko bao giờ phai mờ trong trái tim của mỗi con người.
Biết bao kỉ niệm đã trôi qua nhưg kỉ niện mà ta nhớ nhất có lẽ là thời chăn trâu cắt cỏ. ngày nay máy cày máy kéo đã thay sức kéo của con trâu. Nhưng trâu mãi mãi là thành viên tích cực trong tâm hồn người ''Trâu ơi ta bảo trâu nay.......'' ko biết từ bao giờ người nông dânVN đã quý trâu và gọi trâu tha thiết đến như thế. h/ả ctrâu đã trở nên wen thuộc gần gũi với xóm làng đồng ruộng, quê hương.
Là loài gia suc co ích dược người dân nâng niu, chăm sóc. Với thân hình to chòn. 4 chân chắc chắn như bốn cái cột nhà, vai u thịt bắt sức kéo khoẻ. Bộ lông màu đen dù có mọc dày đến mấy nhưng cũng ko thấu hiểu được sự vất vả của trâu.
Trâu gắn bó với nông dân tần tảo sớm khuya, những buổi trưa hè, hay mùa đông lạnh giá. trâu vẫn cần cù nhẫn lại mải miết cày kéo xe như một lao động chính trong gia đình. Đền mùa gặt người và trâu hăm hở đón những bông lúa vàng. Trâu đi trước người đẩy theo sau.
Con vật mà người nông dân yêu quý nhất, kí uc tuổi thơ của chung ta. ai cũng có 1 thời chăn trâu cắt cỏ. chăn trâu , ngồi trên lưng trâu thổi xáo thả diều. rồi thoả thích tắm mát ở ngay dòng sông quê nhà. h/ả đó đã trở thành kỉ niệm ko bao giờ phai mờ trong trái tim của mỗi con người.
Biết bao kỉ niệm đã trôi qua nhưg kỉ niện mà ta nhớ nhất có lẽ là thời chăn trâu cắt cỏ. ngày nay máy cày máy kéo đã thay sức kéo của con trâu. Nhưng trâu mãi mãi là thành viên tích cực trong tâm hồn người ''Trâu ơi ta bảo trâu nay.......'' ko biết từ bao giờ người nông dânVN đã quý trâu và gọi trâu tha thiết đến như thế. h/ả ctrâu đã trở nên wen thuộc gần gũi với xóm làng đồng ruộng, quê hương.
Là loài gia suc co ích dược người dân nâng niu, chăm sóc. Với thân hình to chòn. 4 chân chắc chắn như bốn cái cột nhà, vai u thịt bắt sức kéo khoẻ. Bộ lông màu đen dù có mọc dày đến mấy nhưng cũng ko thấu hiểu được sự vất vả của trâu.
Trâu gắn bó với nông dân tần tảo sớm khuya, những buổi trưa hè, hay mùa đông lạnh giá. trâu vẫn cần cù nhẫn lại mải miết cày kéo xe như một lao động chính trong gia đình. Đền mùa gặt người và trâu hăm hở đón những bông lúa vàng. Trâu đi trước người đẩy theo sau.
Con vật mà người nông dân yêu quý nhất, kí uc tuổi thơ của chung ta. ai cũng có 1 thời chăn trâu cắt cỏ. chăn trâu , ngồi trên lưng trâu thổi xáo thả diều. rồi thoả thích tắm mát ở ngay dòng sông quê nhà. h/ả đó đã trở thành kỉ niệm ko bao giờ phai mờ trong trái tim của mỗi con người.
Biết bao kỉ niệm đã trôi qua nhưg kỉ niện mà ta nhớ nhất có lẽ là thời chăn trâu cắt cỏ. ngày nay máy cày máy kéo đã thay sức kéo của con trâu. Nhưng trâu mãi mãi là thành viên tích cực trong tâm hồn người Việt.
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày nợ cấy con trâu đi bừa.
Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần háa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp, ngắn. Bụng to. Da dày màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ, khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày. Nhựa sống căng tràn trong từng bước đi vững chắc nhưng chậm chạp của trâu.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 - 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C khoảng 1,5- 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng. Trên đường xấu, trâu có thể kéo với tải trọng là 400 - 500 kg, đường tốt là 700 - 800 kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – 1m khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và,...
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu đã có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường chăm chỉ, cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lề hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.
Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.
Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kì tích thống lĩnh 12 sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh các chú bé đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc... Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy maratong, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Tham khảo nha!
Con trâu là hình ảnh gắn liền với làng quê Việt Nam, với những khóm tre, với đồng ruộng và với người nông dân chân lấm tay bùn. Từ bao đời nay, khi nhắc đến hình ảnh con trâu chúng ta lại nghĩ đến vai trò to lớn của nó đối với nông nghiệp Việt Nam, đó là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt Nam.
Cha ông ta vẫn truyền tai nhau rằng “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. ĐỐi với những người nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì con trâu chính là gia tài đáng giá hơn cả.
Về nguồn gốc xuất xứ của trâu tại Việt Nam có rất nhiều tài liệu, tuy nhiên chưa có một tài liệu nào chính xác nói đến sự ra đời của trâu là như thế nào. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy.
Thuyết minh về con trâu-Văn lớp 8
Trâu có hai loại :trâu đực và trâu cái. Chúng có đặc tính giống nhau nhưng về hình dáng, kích thước thì khác nhau một chút, tuy nhiên không đáng kể. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch, lúc chạy rất nhanh. Đầu của trâu đực nó hơn trâu cái một chút.
Tuy với những sự khác nhau như vậy nhưng đặc tính của trâu là hiền lành, chậm chạp, nặng nề. Mỗi con trâu trưởng thành có khối lượng từ 200kg đến 500kg tùy vào sức khỏe của mỗi con. Một đặc điểm rất dễ nhận dạng của trâu chính là không có hàm răng trên. TRâu thuộc động vật nhai lại, sức nhai của trâu rất bền.
Sừng của trâu dài và cong cong, rất chắc chắn nhưng cấu tạo bên trong đều rỗng tuếch. Chân của trâu rất chắc, ngắn, mập, lúc bước đi thường chệnh choạng ra hai bên. Sức chịu đựng của trâu rất dẻo dai, nó có thể chở được rất nhiều đồ đạc. Tấm thân của trâu dường như rất chắc chắn, da của nó rất dai. Ngày xưa cha ông ta vẫn làm áo bằng da trâu. Thường thì longo trâu thường có màu đen, nhưng có một số con trâu có màu vàng nhạt, đó là do giống lai.
Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, từ công việc cày bừa, kéo lúa, kéo ngô, chở hoa màu…đều đến “lượt” của nó. Sức trâu rất dẻo dai, nó có thể làm quần quật cả ngày không biết mệt. Nhưng sức ăn của nó cũng rất nhiều, ăn cỏ, ăn cám…và đặc biệt khi uống nước thì trâu uống rất nhiều. Thời tiết thay đổi cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trâu nên vào mùa hè người nông dân thường cho trâu ra ao tắm tầm 30 phút hằng ngày, vào mùa đông thì giữ ấm cho trâu bằng việc lót rơm rạ ở chuồng cho trâu nằm. Trâu là động vật sinh con và nuôi con bằng sữa, mỗi năm nó sẽ sinh ra một con nghé con.
Đối với người nông dân thì con trâu chính là cơ ngơi mà họ có nên việc chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ là cực kì cần thiết. Người nông dân nếu thiếu đi con trâu thì sẽ không làm được gì vì nó có sức kéo, sức cày bừa, sinh đẻ…Bên cạnh đó trâu còn là con vật linh thiêng trong các lễ hội chọi trâu lớn. Thịt trâu ăn rất ngon, thơm và bổ dưỡng. Sừng trâu, da trâu còn dùng để làm các trang sức, quần áo cho con người.
Đặc biệt sự xuất hiện của trâu trong Seagame 22 tại Việt Nam thực sự là biểu tượng, là niềm tự hào của nhân dân việt nam. Nó mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn, hiền lành của người nông dân. Một hình đáng đáng trân trọng.
Trâu cũng gắn liền với nhiều kỉ niệm tuổi thơ của trẻ em nông thôn, theo các em lớn lên từng ngày.
Thật vậy, mặc dù hiện nay xuất hiện nhiều loại máy móc, phương tiện hiện đại nhưng trâu vẫn luôn là hình ảnh không thế thay thế được của người nông dân. Nó luôn là người bạn đáng tin cậy và hiền lành nhất. Hơn hết nó chính là nét đẹp của con người việt nam.
Hk tốt
Viết 1 đoạn văn thuyết minh có sử dụng yếu tố miêu tả về con trâu ở làng quê Việt Nam (Chú ý sử dụng những câu tục ngữ,ca dao về con trâu cho thích hợp và sinh động).Mn giúp mk với,mk đg cần,mk cảm ơn trước ❤️
THUYẾT MINH VỀ NỒI ĐA NĂNG
MK ĐG CẦN GẤP!!!
Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, cuộc sống của con người cũng ngày càng hiện đại hơn. Với sự bao phủ của các thiết bị điện tử thông minh, đời sống được cải thiện bởi những phát minh mới. Một trong những phát minh hữu ích cho đời sống sinh hoạt là chiếc nồi cơm điện.
Nồi cơm điện đến với loài người từ đất nước công nghệ phát triển vượt bậc - Nhật Bản. Ý tưởng về việc dùng điện để nấu cơm xuất hiện lần đầu tiên vào những năm giữa thập niên 1920. Khoảng 20 năm sau, một công ty điện tử cho ra đời thành công loại nồi cơm điện làm chín cơm nhờ chuyển năng lượng điện thành năng lượng hơi. Tuy nhiên, chiếc nồi này yêu cầu người dùng phải chú ý theo dõi từ khi bật công tắc nấu cho đến lúc cơm được nấu xong, khá bất tiện. Năm 1956, công ty Toshiba (Nhật Bản) cải tiến và khắc phục nhược điểm đó, cho ra đời một chiếc nồi thuận tiện sử dụng hơn. Theo đó, hơn 700 chiếc nồi cơm điện được đưa ra thị trường và có mặt trong nhà bếp của các bà nội trợ trên toàn thế giới.
Nồi cơm điện bao gồm dây dẫn nguồn nhiệt, vỏ chứa, ruột nồi nấu và thiết bị cảm ứng nhiệt. Dây dẫn dùng để dẫn điện từ nguồn vào nồi. Vỏ nồi cơm điện thường làm bằng nhựa chịu sức nóng tốt, thường có nắp để đậy lại. Trên nắp nồi có một lỗ nhỏ để thoát hơi ra ngoài. Ruột nồi nằm bên trong, thường làm từ kim loại bền, chống dính cao. Trên ruột có các mức nước được kẻ thành vạch, dựa vào đó mà chọn lượng nước phù hợp với gạo để cơm ngon hơn. Thiết bị cảm ứng là thiết bị điện tử, đo nhiệt độ của nồi và kiểm soát nhiệt lượng, báo hiệu tình trạng nồi cơm. Một chiếc nồi hoàn chỉnh sẽ có thêm nhiều phụ kiện khác.
Theo sự phát triển và nhu cầu của từng thời đại mà nồi cơm điện lại được thiết kế theo kiểu mã, chức năng khác nhau. Hiện nay, nhiều loại nồi cơm điện phức tạp được phát minh có nhiều cảm biến hơn và đa chức năng hơn. Những chiếc nồi đơn giản thì có nút bật, chỉ để nấu cơm. Hiện đại hơn, sẽ có cả bảng chức năng cảm ứng, muốn dùng chức năng nào thì chọn nút đó.
Nguyên lí hoạt động của nồi cơm điện khá đơn giản. Để nấu cơm, cho gạo và nước sạch vào ruột nồi trước, chọn nấc cảm ứng nhiệt về vị trí nấu. Trong thời gian nấu, nước và gạo được làm nóng với toàn bộ công suất nhờ một dây dẫn điện tạo ra. Khi đạt đến nhiệt độ 100 °C, nước sẽ chuyển từ lỏng sang dạng hơi, thoát ra theo lỗ thông của vỏ nồi. Nhiệt độ cao tạo ra sẽ nấu chín gạo, đèn báo chuyển chế độ thì kết thúc nấu. Thông thường, sau đó nồi cơm điện sẽ chuyển sang chế độ "hâm nóng" để tiết kiệm năng lượng, giữ cơm đã chin ở nhiệt độ an toàn, tự động ngắt nguồn điện.
Nồi cơm điện đã trở thành vật dụng quen thuộc không thế thiếu trong mỗi gia đình. Nó giúp chúng ta tiết kiệm thời gian đun nấu mà lại có những bát cơm dẻo ngon. Không những thế, nồi cơm điện còn có nhiều chức năng như hấp, nấu cháo, làm bánh, hầm... Chỉ với một chiếc nồi, chúng ta có thể làm bất cứ món gì mình muốn. Nó giống như cầu nối gắn kết cả gia đình với những bữa cơm đàm ấm sum họp.
Trong quá trình sử dụng, cần biết cách để giữ cho nồi bền. Ngay khi đi chọn mua, bạn nên cắm điện thử ngay tại nơi bán, kiểm tra các nút nấu có hoạt động chính xác hay không. Kiểm tra cả trong lẫn ngoài đảm báo nồi không bị trầy xước bên ngoài và ruột men bên trong tráng chống dính không bị bong tróc. Trước khi cho ruột vào nấu, nên lau khô mặt ngoài của ruột nồi. Thường xuyên lau chùi, giữ cho lỗ thông hơi trên vỏ sạch sẽ, thoáng. Không mở nắp quá nhiều khi nồi đang nấu để tiết kiệm điện. Ngoài ra, không nên để cơm chín quá 12 giờ mà không dùng, không rút điện gây hại cho nguồn điện. Thường xuyên lau chùi vỏ nồi và vệ sinh ruột nồi đúng cách để bảo vệ lớp men chống dính. Sử dụng đúng chức năng có ở nồi. Nếu nồi chỉ dùng để nấu cơm, không xào nấu để giữ tuổi thọ của nồi. Chiếc nồi cơm điện có sử dụng tốt được lâu hay không là nhờ vào cách bảo quản của người dùng.
Với sự phát triển tốc độ của kỹ thuật số, giống như nhiều thiết bị, vật dụng khác, nồi cơm điện cũng được cải tiến từng ngày. Nồi cơm điện đi vào đời sống sinh hoạt, có mặt ở khắp thế giới và trở thành một phần trong cuộc sống của con người.
bài văn thuyết minh về hồ li
giúp mk với đang cần gấp
PTĐT- Sau khi ngăn đập, hồ Thượng Long hay còn gọi (hồ Ly) trở thành một trong 10 hồ có trữ lượng nước lớn nhất tỉnh, hồ có khả năng tưới cho trên 500ha lúa và cung cấp nước sinh hoạt cho hàng ngàn người dân ở xã Thượng Long, Nga Hoàng, Hưng Long, Phúc Khánh, Đồng Thịnh và thị trấn Yên Lập. Đập ngăn nước đã tạo nên một hồ nước xanh như viên ngọc giữa núi rừng.
Sáng sớm tinh mơ, tiếng gà gáy trong không gian yên tĩnh đánh thức chúng tôi dậy với cái se lạnh đầu đông. Thượng Long, một xã của huyện Yên Lập vẫn giữ được nét đẹp hoang sơ của cảnh vật và bản sắc văn hóa dân tộc của người Dao, người Mường bản địa.
Vượt dốc Đá Thờ mời anh đến quê em
Yên Lập đây, núi rừng xanh ngút ngát
Khe Cháu, Khỉ Dòm… ẩn ào con thác
Tiếng của đại ngàn ca hát đã ngàn năm.
Đập Thượng Long, hồ Ly trong đêm trăng
Quê hương em đẹp bồng bềnh hư ảo
Xúng xính Mường, Dao khoe sắc màu váy áo
Điệu múa sênh tiền bao du khách nao nao
Hồ Ly được tạo từ hai khe nước là khe Ly và khe Chanh. Người dân địa phương đã lấy tên khe Ly đặt tên gọi cho hồ. Hồ Ly có vẻ đẹp non nước hữu tình mà thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nơi đây với cảnh đẹp yên bình thu hút nhiều bạn trẻ đến tham quan, chụp hình và trải nghiệm thú vị khi khám phá văn hóa dệt thổ cẩm, thưởng thức những đặc sản của bà con dân tộc người Dao, Mường tại địa phương. Buổi chiều hôm trước chúng tôi đến đây khi mặt trời chuẩn bị khuất núi. Đứng trên mặt đập, ngắm nhìn cây cầu treo dài 117m rộng 2m như một sợi tơ chùng vắt qua mặt hồ xanh thẳm, mùi quế thơm ngào ngạt từ những chồng cành quế khô trên những chiếc thuyền máy đang được người dân vác chất lên xe tải bán cho cơ sở sản xuất tinh dầu quế. Men theo bờ đập lên cầu, có thể ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ của núi rừng, vẻ đẹp hiền hòa của mặt hồ phẳng lặng. Một bác nông dân đang dong đàn trâu thong thả qua cầu sau một ngày lên nương. Cuộc sống về chiều nơi đây diễn ra bình dị đến vậy, là chốn an yên, bình lặng sau cái xô bồ, nhộn nhịp của nơi phố xá đông đúc. Tất cả những điều đó, đều làm chúng tôi và bất cứ ai lưu luyến khi tới với hồ Ly. Tạm gác lại những suy nghĩ miên man, dạo một vòng quanh hồ, chúng tôi bắt gặp những đứa trẻ đi lấy củi trở về, trên tay cầm một vài cành lá quế tươi, những nụ cười hồn nhiên trên gương mặt ngây thơ của chúng gợi lại ký ức tuổi thơ không dễ gì có được.
Bước xuống thuyền du ngoạn lòng hồ mới có thể cảm nhận hết được vẻ đẹp tiềm ẩn của hồ Ly. Nơi đây được tạo hóa ban tặng, cùng với những nét sơ khai, chưa có sự can thiệp nhiều của con người như vẽ lên một bức tranh thủy mặc sống động. Xung quanh hồ là những cánh rừng keo, quế bạt ngàn, hun hút của đồng bào dân tộc Dao và Mường kết hợp với màu xanh trong vắt của nước hồ khiến bất cứ ai cũng có cảm giác như được hòa mình vào thiên nhiên mà tức cảnh sinh tình. Phóng tầm mắt ra xa, có thể thấy những dãy núi ẩn hiện sau làn mây mờ. Thuyền chúng tôi rẽ qua những khe hồ, bắt gặp những người dân bản địa hoặc du khách đang ngồi câu cá. Khung cảnh mới yên bình, thư thái làm sao!. Trong tiết chớm đông, một chiếc thuyền nan nhỏ rẽ nước phía trước thuyền của chúng tôi, người đàn ông bơi thuyền như một lữ khách đang chia đôi trời, nước về hai phía đẹp như một bức tranh mà bất kỳ ai cũng phải trầm trồ. Trên dãy núi, đồi là bạt ngàn rừng quế. Ông Trần Đình Xuyên, Phó Chủ tịch UBND xã Thượng Long chia sẻ: Ngoài vai trò rất quan trọng trong đời sống nông nghiệp, thiên nhiên xung quanh hồ chưa có sự can thiệp của con người, hồ Ly đang được xem là điểm đến đầy tiềm năng của địa phương, đặc biệt vào ngày thứ 7 và chủ nhật đã có rất nhiều lượt khách tới tham quan, chụp hình. Diện tích mặt nước rộng và có nơi độ sâu trên dưới 15m khu vực hồ Ly còn có tiềm năng về thủy sản thích hợp phát triển thành khu du lịch sinh thái của tỉnh.
Nhìn mặt trời dần lùi sau những dãy núi, tôi nhận ra hồ Ly có một gam màu đậm rất cổ kính không phải vì màu của trời chiều. Đó chính là màu từ những cánh rừng quế, đồi keo xanh mướt, hơi nước bốc lên từ mặt hồ, làn khói chiều lan tỏa từ những mái nhà sàn trên các đảo nhỏ trên hồ.
Thuyền quay lại bờ, chúng tôi trở về con đường cũ để chuẩn bị cho buổi giao lưu với đồng bào địa phương. Buổi tối, không khí thật tuyệt vời, người dân trong bản đều đến nhà văn hóa thôn Móc. Mọi người giao lưu vui vẻ, cụng ly rượu ấm và thưởng thức món xôi nếp thơm, cá rán được câu từ hồ... và xem điệu múa dân tộc do bà con tự thể hiện. Sẽ không có ai nỡ từ chối trước sự hiếu khách của người dân nơi đây với những món đặc sản địa phương thơm ngon dân giã. Với tiềm năng khai thác du lịch sinh thái hồ của địa phương. Nếu được đầu tư, xây dựng, khu vực hồ Ly có thể trở thành khu du lịch sinh thái, cùng với du lịch khám phá, trải nghiệm bằng các hoạt động: Bơi thuyền, câu cá, tham quan các bản làng dân tộc Dao, Mường ven hồ. Và những món ăn đặc sắc, cùng với các sản phẩm núi rừng, các mặt hàng thổ cẩm của bà con nơi đây. Những phong tục của người bản địa bao đời đã tạo nên văn hóa đặc sắc là những điều khó quên.
Đến hồ Ly vào mỗi mùa sẽ có những cảm nhận thú vị khác nhau nhưng có một điểm chung là màu xanh của núi đồi phản chiếu mặt nước xanh trong và phẳng lặng, khiến cảnh quan rất dễ mê hoặc những ai nặng lòng với thiên nhiên. Giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống nông nghiệp của tỉnh, với cảnh quan trữ tình thơ mộng của mình hồ Ly cũng được xem là điểm đến đầy tiềm năng cho ngành du lịch. Ai đã từng một lần đi thuyền trên hồ, thưởng lãm cảnh sắc thiên nhiên mới có thể cảm nhận được hết về nơi này. Trong khi chưa có các dự án nuôi trồng thủy sản và du lịch nào được triển khai, cảnh quan hồ Ly vẫn là nơi lý tưởng cho những ai ưa thích du lịch sinh thái và thưởng thức không khí yên bình thư thái giữa những cánh rừng quế thơm ngát.
thuyết minh về đền thờ trần hưng đạo
cần gấp cần gấp !!
Refer
Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của dân tộc Việt Nam. Ông sinh năm 1228, khi họ Trần vừa thay thế họ Lý làm chủ đất nớc đang trong thời kỳ quá độ suy tàn, nhân dân đói kém,đất nớc loạn lạc. Khi còn nhỏ ông đợc dạy bảo đến nơi,đến chốn, lớn lên Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh,xuất sắc,thông kim bác cổ,văn võ song toàn,ông gạt bỏ mối thù riêng để vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ chiến thắng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc trớc quân Nguyên – Mông xâm lợc. Ông là ngời giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi ngời vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì Vua, vì nớc chính là tấm lòng cao thợng và lớn lao của Hưng Đạo Vương.
Ở thế kỷ 13, trong 3 lần quân Nguyên – Mông sang xâm lợc nớc ta, địa danh Tam Giang – Thổ Khối đã 2 lần chứng kiến Hng Đạo Vơng Trần Quốc Tuấn cùng Vua tôi nhà Trần lui về đây để lập hành dinh chống giặc. Đó là vào năm 1285, quân Nguyên chia làm 3 mũi tràn sang tấn công nớc ta lần thứ 2, do thế giặc quá mạnh, để đảm bảo an toàn về lực lợng, Trần Hng Đạo đã đa vua Trần Nhân Tông và Thái Thợng Hoàng Trần Thánh Tông cùng binh lính theo đờng thuỷ rút lui chiến lợc vào Thanh Hoá và chọn Thổ Khối làm hành dinh chống giặc. Sau 2 lần xâm lợc nớc ta không thành, năm 1287 Hốt Tất Liệt sai con là Thái tử Thoát Hoan đem đại quân sang xâm lợc nớc ta lần thứ 3, một lần nữa Trần Hng Đạo đã đa Vua tôi nhà Trần cùng binh lính rút lui vào Thanh Hoá và tiếp tục chọn Thổ Khối làm căn cứ phòng ngự. Ngày 10/01/1288 đợc tin Toa Đô rời Thuận Hoá vợt biển ra Bắc, Hng Đạo Vơng đã lệnh cho binh sỹ thần tốc đến Thiên Trờng chặn đánh đội quân của Toa Đô, tại đây quân ta đã thu đợc toàn thắng, tớng giặc là Toa Đô tử trận, thừa thắng quân ta tiến đến cửa Bạch Đằng và cuối cùng đã đại thắng quét sạch quân Nguyên – Mông ra khỏi bờ cõi nớc ta, giành độc lập cho dân tộc.
Mùa thu ngày 20 tháng 8 âm lịch niên hiệu Hng Long năm thứ 8 (năm 1300) Hng Đạo Vơng về cõi vĩnh hằng. Để tởng nhớ ngời anh hùng của dân tộc và tỏ lòng thành kính,biết ơn đối với ông,nhân dân địa phơng đã lập đền thờ để hơng khói phụng thờ và khắc bia đá để lu truyền hậu thế.
Tơng truyền, ban đầu đền đợc làm bằng tranh, tre, nứa lá; đến năm Thành Thái thứ 2, khi thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, triều đình nhà Nguyễn đã phái Tôn Thất Thuyết ra Bắc dẹp giặc. Trên đờng đi, qua vùng đất Thổ Khối thấy có ngôi đền, TônThất Thuyết hỏi ra mới biết là đền thờ Đức Hng đạo Đại Vơng, ông vào khấn và hứa nếu đợc Đức Đại Vơng phù hộ thắng trận này sẽ về tâu với triều đình cho xây dựng, tôn tạo lại đền và quả nhiên Tôn Thất Thuyết đã thắng trận, ông trở về tâu với triều đình, Vua bèn ban sắc cho nhân dân Thanh Hoá và phủ Hà Trung xây dựng lại đền bằng gạch, mái lợp ngói, kết cấu, kiến trúc làm theo kiểu đời Trần.Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lich sử, ngôi đền đã bị xuống cấp nghiêm trọng, vì vậy từ năm 1988 nhân dân địa phơng và khách thập phơng đã đóng góp công sức và tiền bạc để trùng tu, tôn tạo lại ngôi đền. Đồng thời, năm 1996 đền thờ Trần Hng Đạo đã đợc Bộ văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến nay do kinh tế xã hội ngày càng phát triển, để bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá gắn với du lịch, đáp ứng nguyện vọng viếng lễ của khách thập phơng, ngày 28 tháng 10 năm 2011 UBND tỉnh Thanh Hoá đã có Quyết định số 3573/QĐ-UBND về phê duyệt dự án đầu t xây dựng công trình: Bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá đền thờ Trần Hng Đạo xã Hà Dơng, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Đây là cơ sở pháp lý để mọi nguời, mọi tổ chức đóng góp, công đức xây dựng lại đền ngày càng khang trang, bề thế,xứng đáng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia; Xứng tầm hơn với con ngời và sự nghiệp của Hng Đạo Đại Vơng Trần Quốc Tuấn.
Một trong những tấm bia ở đền đã ghi lại, năm 1887 vị đại thần triều Nguyễn là Tôn Thất Tớng Công (Tức là Tôn Thất Thuyết) đã tìm đợc con dấu cổ và bức hoạ cổ đã đa về dâng tiến tại đền Trần Thổ Khối. Trớc kia đền đã tổ chức lễ khai ấn vào ngày rằm tháng giêng, nhng với nhiều lý do khác nhau lễ khai ấn bị gián đoạn không đợc duy trì thờng xuyên, cho đến những năm gần đây, lễ hội truyền thống tại đền Trần đã đợc khôi phục lại, trong đó có lễ khai ấn vào đêm 14 rạng sáng ngày 15 tháng giêng, tổ chức lễ hội vao ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm .
Lễ khai ấn đền Trần là một tục lệ cổ với ý nghĩa lớn lao là cầu mong thiên hạ thái bình,thịnh trị, mọi ngời đợc hởng lộc ấn của triều Trần ban phát, mong muốn bớc vào một năm mới mạnh khoẻ, lao động sản xuất hăng say, công tác và học tập tốt. Việc khai ấn không chỉ mang yếu tố tâm linh, giá trị văn hoá truyền thống mà còn mang ý nghĩa giáo dục lịch sử, nhân văn sâu sắc, thể hiện đạo lý uống nớc nhớ nguồn của dân tộc. Đây cũng là dịp để nhân dân và du khách thập phơng bầy tỏ lòng thành kính, tri ân công đức đối với các bậc tiền nhân và ghi nhớ công lao to lớn của Vơng Trần Triều.
refer
Gió mùa Đông Bắc hay còn gọi là gió bắc hay gió Đông Bắc hoặc gió mùa mùa đông là một thuật ngữ để chỉ một khối khí lạnh có nguồn gốc từ trung tâm áp cao từ Trung Á và Xibia thổi về xích đạo rồi di chuyển ngang qua khu vực Việt Nam, gây ra gió mạnh, trời trở rét và thời tiết xấu từ Tháng 11 đến Tháng 4 năm sau. Chúng được xem như loại gió chướng (tật phong) hay gió xấu, không tốt cho sức khoẻ, đây là hiện tượng thời tiết theo quan niệm của người Việt Nam tương tự như hiện tượng bạch phong mao (Zud) ở Mông Cổ.
TK
Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của dân tộc Việt Nam. Ông sinh năm 1228, khi họ Trần vừa thay thế họ Lý làm chủ đất nớc đang trong thời kỳ quá độ suy tàn, nhân dân đói kém,đất nớc loạn lạc. Khi còn nhỏ ông đợc dạy bảo đến nơi,đến chốn, lớn lên Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh,xuất sắc,thông kim bác cổ,văn võ song toàn,ông gạt bỏ mối thù riêng để vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ chiến thắng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc trớc quân Nguyên – Mông xâm lợc. Ông là ngời giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi ngời vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì Vua, vì nớc chính là tấm lòng cao thợng và lớn lao của Hưng Đạo Vương.
Ở thế kỷ 13, trong 3 lần quân Nguyên – Mông sang xâm lợc nớc ta, địa danh Tam Giang – Thổ Khối đã 2 lần chứng kiến Hng Đạo Vơng Trần Quốc Tuấn cùng Vua tôi nhà Trần lui về đây để lập hành dinh chống giặc. Đó là vào năm 1285, quân Nguyên chia làm 3 mũi tràn sang tấn công nớc ta lần thứ 2, do thế giặc quá mạnh, để đảm bảo an toàn về lực lợng, Trần Hng Đạo đã đa vua Trần Nhân Tông và Thái Thợng Hoàng Trần Thánh Tông cùng binh lính theo đờng thuỷ rút lui chiến lợc vào Thanh Hoá và chọn Thổ Khối làm hành dinh chống giặc. Sau 2 lần xâm lợc nớc ta không thành, năm 1287 Hốt Tất Liệt sai con là Thái tử Thoát Hoan đem đại quân sang xâm lợc nớc ta lần thứ 3, một lần nữa Trần Hng Đạo đã đa Vua tôi nhà Trần cùng binh lính rút lui vào Thanh Hoá và tiếp tục chọn Thổ Khối làm căn cứ phòng ngự. Ngày 10/01/1288 đợc tin Toa Đô rời Thuận Hoá vợt biển ra Bắc, Hng Đạo Vơng đã lệnh cho binh sỹ thần tốc đến Thiên Trờng chặn đánh đội quân của Toa Đô, tại đây quân ta đã thu đợc toàn thắng, tớng giặc là Toa Đô tử trận, thừa thắng quân ta tiến đến cửa Bạch Đằng và cuối cùng đã đại thắng quét sạch quân Nguyên – Mông ra khỏi bờ cõi nớc ta, giành độc lập cho dân tộc.
Mùa thu ngày 20 tháng 8 âm lịch niên hiệu Hng Long năm thứ 8 (năm 1300) Hng Đạo Vơng về cõi vĩnh hằng. Để tởng nhớ ngời anh hùng của dân tộc và tỏ lòng thành kính,biết ơn đối với ông,nhân dân địa phơng đã lập đền thờ để hơng khói phụng thờ và khắc bia đá để lu truyền hậu thế.
Tơng truyền, ban đầu đền đợc làm bằng tranh, tre, nứa lá; đến năm Thành Thái thứ 2, khi thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, triều đình nhà Nguyễn đã phái Tôn Thất Thuyết ra Bắc dẹp giặc. Trên đờng đi, qua vùng đất Thổ Khối thấy có ngôi đền, TônThất Thuyết hỏi ra mới biết là đền thờ Đức Hng đạo Đại Vơng, ông vào khấn và hứa nếu đợc Đức Đại Vơng phù hộ thắng trận này sẽ về tâu với triều đình cho xây dựng, tôn tạo lại đền và quả nhiên Tôn Thất Thuyết đã thắng trận, ông trở về tâu với triều đình, Vua bèn ban sắc cho nhân dân Thanh Hoá và phủ Hà Trung xây dựng lại đền bằng gạch, mái lợp ngói, kết cấu, kiến trúc làm theo kiểu đời Trần.Trải qua thời gian và những biến cố thăng trầm của lich sử, ngôi đền đã bị xuống cấp nghiêm trọng, vì vậy từ năm 1988 nhân dân địa phơng và khách thập phơng đã đóng góp công sức và tiền bạc để trùng tu, tôn tạo lại ngôi đền. Đồng thời, năm 1996 đền thờ Trần Hng Đạo đã đợc Bộ văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến nay do kinh tế xã hội ngày càng phát triển, để bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá gắn với du lịch, đáp ứng nguyện vọng viếng lễ của khách thập phơng, ngày 28 tháng 10 năm 2011 UBND tỉnh Thanh Hoá đã có Quyết định số 3573/QĐ-UBND về phê duyệt dự án đầu t xây dựng công trình: Bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá đền thờ Trần Hng Đạo xã Hà Dơng, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Đây là cơ sở pháp lý để mọi nguời, mọi tổ chức đóng góp, công đức xây dựng lại đền ngày càng khang trang, bề thế,xứng đáng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia; Xứng tầm hơn với con ngời và sự nghiệp của Hng Đạo Đại Vơng Trần Quốc Tuấn.
Một trong những tấm bia ở đền đã ghi lại, năm 1887 vị đại thần triều Nguyễn là Tôn Thất Tớng Công (Tức là Tôn Thất Thuyết) đã tìm đợc con dấu cổ và bức hoạ cổ đã đa về dâng tiến tại đền Trần Thổ Khối. Trớc kia đền đã tổ chức lễ khai ấn vào ngày rằm tháng giêng, nhng với nhiều lý do khác nhau lễ khai ấn bị gián đoạn không đợc duy trì thờng xuyên, cho đến những năm gần đây, lễ hội truyền thống tại đền Trần đã đợc khôi phục lại, trong đó có lễ khai ấn vào đêm 14 rạng sáng ngày 15 tháng giêng, tổ chức lễ hội vao ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm .
Lễ khai ấn đền Trần là một tục lệ cổ với ý nghĩa lớn lao là cầu mong thiên hạ thái bình,thịnh trị, mọi ngời đợc hởng lộc ấn của triều Trần ban phát, mong muốn bớc vào một năm mới mạnh khoẻ, lao động sản xuất hăng say, công tác và học tập tốt. Việc khai ấn không chỉ mang yếu tố tâm linh, giá trị văn hoá truyền thống mà còn mang ý nghĩa giáo dục lịch sử, nhân văn sâu sắc, thể hiện đạo lý uống nớc nhớ nguồn của dân tộc. Đây cũng là dịp để nhân dân và du khách thập phơng bầy tỏ lòng thành kính, tri ân công đức đối với các bậc tiền nhân và ghi nhớ công lao to lớn của Vơng Trần Triều.