có ý iến cho rằng :chỉ có những dân tộc chậm phát triển mới cần phải học hỏi các dân tộc khác . Em có đồng ý ko ? vì sao?
Ý kiến nào sau đây thể hiện việc tôn trọng, học hỏi các dân tộc khác? A. Chỉ những nước có nhiều công trình văn hoá lớn mới đáng để ta học hỏi. B. Một dân tộc còn chậm phát triển cũng có bản sắc riêng về văn hoá đáng để học tập C. Chỉ những nước kinh tế phát triển mới đáng để nước khác học hỏi. D. Tiếp thu tất cả những gì mới lạ của nước khác là học hỏi văn hoá của dân tộc đó.
Câu 1. Em đồng ý với ý kiến nào sau đây. Vì sao? a. Bạn T cho rằng chỉ nên tôn trọng, học hỏi những dân tộc giàu có b. Bố mẹ H không xem các chương trình nghệ thuật nước ngoài mà chỉ xem chương trình VN vì cho rằng như vậy mới là giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc 2. Trong một buổi làm việc nhóm, M không tham gia cùng các bạn, Ngoài ra, M còn nói với C rằng bạn Q học giỏi sẽ lo hết mọi chuyện. a. Em có đồng ý hay không đồng ý với ý kiến của bạn M không? Vì sao? b. Nếu em là C, em sẽ nói gì với M? 3. Em hãy nhận xét và đưa ra lời khuyên cho bạn trong tình huống dưới đây: Trên 1 diễn đàn thảo luận về truyền thống dân tộc, bạn K cho rằng truyền thống văn hoá của VN không đặc sắc. Cần gấppppp
Có ý kiến cho rằng: Tất cả các phong tục tập quán tập quán của của các vùng miền đều là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Em có đồng ý với ý kiến đó không? vì sao?
Theo em truyền thông tốt đẹp của dân tộc có vai trò gì đối với dân tộc?
Em có đông ý, vì tất cả các nghề truyền thống của các vùng miền đều là truyền thống tốt đẹp của Việt Nam nhưng sẽ có truyền thống không nên phát huy như: truyền thống lớp đề,cờ bạc,...
Truyền thống tốt đẹp của dân tộc sẽ giúp dân tộc có thêm động lực và sức mạnh trong công việc .
Câu 1: Việc học hỏi các dân tộc khác có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi dân tộc? Cho ví dụ
Câu 2: Nêu những biểu hiện về nếp sống văn hóa ở cộng đồng dân cư
Câu 3: Em cần làm gì để góp phần xây dựng nếp sống văn hóa ở cộng đồng dân cư?
Em đồng ý với những ý kiến nào sau đây ?
a) Truyền thống là những kinh nghiệm quý giá ;
b) Nhờ có truyền thống, mỗi dân tộc mới giữ được bản sắc riêng;
c) Dân tộc Việt Nam có nhiều truyền thống tốt đẹp, rất đáng tự hào;
d) Không có truyền thống, mỗi dân tộc và cá nhân vẫn phát triển;
đ) Trong thời đại mở cửa và hội nhập hiện nay, truyền thống dân tộc không còn quan trọng nữa ;
e) Không được để các truyền thống dân tộc bị mai một, lãng quên.
Đáp án đúng: (a), (b), (c), (e)
Truyền thông tốt đẹp của dân tộc là vô cùng quý giá, góp phần tích cực vào quá trình phát triển của dân tộc và mỗi cá nhân. Vì vậy, chúng ta phải bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thông tốt đẹp của dân tộc để góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc Việt N
1.theo em, có phải trong cuộc sống ai cũng cần có chí công vô tư không? Vì sao?
2. Theo em, 1 người cố gắng phấn đấu vươn lên bằng tài năng, sức lực bà trí tuệ của mình để mang lại lợi ích cho cá nhân thì có đc xem là chí công vô tư kh? Cho ví dụ
3. Cho ví dụ về dân chủ và kỉ luật
5. Hãy nêu 1 số thành quả của sự hợp tác đối với các nước khác
7. Có 2 ý kiến cho rằng:
A.hợp tác với người giỏi hơn thì mới phát triển
B.hợp tác với người có cùng trình độ thì mới bình đẳng
Theo em, ý kiến nào là em đồng ý? Vì sao?
9, chúng ta cần làm gì để kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc
trong cuộc sống ai cung cần có phẩm chất chí công vô tư vì khi có phẩm chất đó thifsex đem lại lợi ích cho tập thể và cộng đồng xã hội,góp phần làm đất nước thêm giàu mạnh ,văn minh ,dân chủ,công bằng
Có ý kiến cho rằng: Với tư cách giáo viên, thầy Ha-men đã truyền sức mạnh cảm hóa mãnh liệt đối với học trò; với tư cách công dân, thầy thể hiện tình yêu đất nước và dân tộc cao đẹp. Em có đồng ý với ý kiến đó ko? Vì sao?
Em đồng ý với ý kiến trên. Vì thầy Ha - men đã cố gắng truyền tải lòng yêu nước của mình đến với thế hệ trẻ, những người sẽ gánh trách nhiệm giải phóng quê hương, giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc trong buổi học cuối cùng, làm cho những cậu bé lười học, ham chơi như Phrăng bị cảm hóa.
Em đồng ý với ý kiến đó. Trong buổi học cuối cùng ngày hôm ấy, thầy cũng đã dạy các em viết chữ, đọc thơ, nhưng quan trọng hơn cả là thầy đã dạy cho đám học trò (cũng như những người lớn ngồi cuối lớp) tầm quan trong của việc bảo vệ và gìn giữ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình - như thầy nói rằng dù có bị xâm chiếm mà giữ được ngôn ngữ của mình thì cũng vẫn giữ được Tổ quốc của mình. Thầy đã cảm hóa được đứa học trò ngỗ nghịch nhất của mình, đã giúp cậu bé ý thức được tầm quan trọng của ngôn ngữ nước nhà. Việc thầy làm trong buổi học không những truyền sức mạnh cảm hóa mãnh liệt đối với học trò mà còn thể hiện một tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, cao đẹp đối với quê hương xứ sở của mình.
Em có đồng ý với ý kiến đó . vì thầy đã truyền được cho chúng ta trong việc là một công dân tốt
Có ý kiến cho rằng ý thức dân tộc trong văn bản "Nước Đại Việt ta" được nối tiếp và phát triển từ bài thơ "Nam quốc sơn hà". Em có đồng ý với ý kiến đó không? Ví sao?
Tham khảo nha em:
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Bởi ông không chỉ là một vị tham mưu tài giỏi của Lê Lợi mà ông còn là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam. Bình Ngô đại cáo do ông thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo là bài bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố sau khi quân ta đại thắng. Bài cáo là ý thức dân tộc được tiếp nối từ thời Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt. Điều ấy được thể hiện rõ qua đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Quả thực đúng như vậy. Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta và là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt bằng nhiều yếu tố mới, phong phú, toàn diện và sâu sắc hơn. Đồng thời được thể hiện bằng những minh chứng hùng hồn, sự thực hiển nhiên trong thực tế đời sống.
Sự tiếp nối ý thức dân tộc của Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi so với Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt là sự tiếp nối về ý thức dân tộc về chủ quyền lãnh thổ. Trong bài Sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt đã đưa ra một chân lí mà không ai có thể chối cãi được:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Dịch thơ:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở”
Cơ sở lí lẽ mà Lý Thường Kiệt đưa ra là đất nào thì vua ấy, sự thực đã được phân định một cách rõ ràng, rạch ròi trong “thiên thư”. Sở dĩ ông sử dụng “thiên thư” - một sự vật liên quan tới nhân vật siêu nhiên là ông trời, để làm cơ sở lí lẽ cho lập luận của mình vì người xưa, họ tin vào thiên mệnh tức là mệnh trời. Đối với người trung đại, đó là một niềm tin bất diệt. Họ tin tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên rồi chết đi như thế nào không phải do mình định đoạt, mà tất cả là do sự sắp đặt của ông trời. Mà đã là sự sắp đặt của ông trời thì không một ai có thể can thiệp thay đổi nó. Còn nếu làm trái số mệnh thì chắc chắn kết cục sẽ không tốt đẹp. Mượn “sách trời” để nêu lên ranh giới lãnh thổ của đất nước mình là một cách để thể hiện sự tự hào dân tộc và khẳng định độc lập chủ quyền về mặt lãnh thổ của ta. Cơ sở mà Lý Thường Kiệt đưa ra là cơ sở lí lẽ vững chắc, đầy thuyết phục.
Bài Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi, ông cũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước ta, mà chủ quyền ấy của Đại Việt đã có từ lâu đời:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Trong suy nghĩ của con người ấy đã tồn tại sự độc lập dân tộc. Bởi từng câu từng chữ trong bài cáo đều cho thấy điều ấy. Hai câu thơ trên đã cho thấy sự rạch ròi trong ranh giới của núi sông giữa hai nước láng giềng. Đó cũng chính là lời nhắc nhở Trung Quốc về sự tồn tại và phát triển của nước ta. Bách Việt trước đây đã có, đã từng bị xâm chiếm, nhưng chỉ duy nhất Đại Việt vẫn còn độc lập, ranh giới lãnh thổ cũng đã được định hình từ đó. Phía Bắc là Trung Quốc, phía Nam là Đại Việt, không thể lẫn lộn hai miền Nam Bắc, cũng không thể khẳng định Đại Việt ở phía Nam chính là lãnh thổ phía Nam của Trung Quốc được. Quốc gia của ta, đất nước của ta, lãnh thổ của ta vì thế mà được xác định rõ ràng trong tâm thức và suy nghĩ của người Việt để rồi ý thức ấy biến thành sức mạnh của hành động.
Ý thức dân tộc trong Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà Nguyễn Trãi còn đưa ra hàng loạt những yếu tố khác:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Cái cốt lõi trong tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là lấy lợi ích của nhân dân, dân tộc làm gốc và mọi việc làm, mọi cuộc chiến đấu cũng chỉ vì mục đích cuối cùng là đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Và đó chính là nền tảng cho những khẳng định của ông sau này. Nước Đại Việt ta vốn đã có nền “văn hiến”. Văn hiến là truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Cho nên, không phải đất nước nào cũng có thể có được nền văn hiến ấy mà cần phải có thời gian tích lũy, xây dựng và phát triển.
Đâu chỉ thế, Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định phong tục, tập quán sinh sống của người phương Bắc và người phương Nam cũng không thể giống nhau do sự khác biệt về thiên nhiên và điều kiện sinh sống của con người. Nhưng dù thế nào thì điều ấy cũng có nghĩa, người Việt không chỉ có một nền văn hiến lâu đời mà ngay cả phong tục, tập quán cũng mang những nét đặc trưng riêng. Đặc biệt, Nguyễn Trãi còn tự hào khi soi chiếu các triều đại của ta và Trung Quốc như một minh chứng cho dòng chảy trôi lịch sử của nước ta chưa từng bị gián đoạn. Nếu Trung Quốc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt có Triệu, Đinh, Lí Trần. Những triều đại ấy được đặt trong thế so sánh, ngang hàng với nước lớn như Trung Quốc như một cách thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Với lối văn biền ngẫu sóng đôi cùng các hình ảnh mang tính gợi hình và hệ thống từ ngữ chỉ thời gian kéo dài từ quá khứ đến hiện tại (đã lâu, từ trước, đã chia, bao đời, mỗi bên) đã khiến cho bài cáo có những lập luận chặt chẽ, giọng điệu hùng hồn và giàu sức thuyết phục đối với người đọc.
Có thể nói, sự tiếp nối về ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam tới Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo) là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển ý thức độc lập, chủ quyền của nhân dân ta. Đó cũng là lý do vì sao, dù có bị xâm lược, bị đô hộ gần 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói, vẫn giữ được phong tục tập quán và lãnh thổ của mình.
Để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố nào?
Nhiều ý kiến cho rằng ý thức dân tộc ở đoạn trích Nước Đại Việt ta là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc ở bài thơ Sông núi nước Nam vì sao? Để trả lời câu hỏi này, hãy tìm hiểu xem những yếu tố nào đã được nói tới trong Sông núi nước Nam và những yếu tố nào mới được bổ sung trong Nước Đại Việt ta.
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, tác giả dựa vào những yếu tố:
+ Nền văn hiến từ lâu đời: nền văn hiến đã lâu
+ Phong tục tập quán
+ Lịch sử hình thành và phát triển riêng
+ Chế độ nhà nước riêng, bình đẳng, ngang tầm với các triều đại Trung Quốc
- Bài thơ Sông núi nước Nam của tác giả Lý Thường Kiệt đề cập tới sự độc lập lãnh thổ và chủ quyền nước Nam- vua Nam ở.
- Tới Bình Ngô Đại cáo Nguyễn Trãi vẫn khẳng định về lãnh thổ, chủ quyền. Có mở rộng, khẳng định nền văn hiến lâu đời, phong tục, lịch sử triều đại.
+ Thể loại văn biền ngẫu giúp cho việc diễn giải ý thơ được chi tiết và kỹ càng hơn.