chỉ ra nghệ thuật trào phúng trong đoạn trich : <<Cải vội xòe năm ngón tay... bằng hai mày.>>
Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về nghệ thuật trào phúng.
Phân tích các từ ngữ: ghé mắt, trông ngang, kì, cheo leo, đây, đổi phận làm trai,…
Tìm giọng điệu khác nhau phân biệt trong thơ trào phúng tìm nội dung nghệ thuật trong bài thơ trào phúng tìm giọng điệu bài lễ xướng danh khoa đinh dậu và lai tân
Anh (chị) nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở đoạn trích này?
Số đỏ là tác phẩm xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại
- Tác phẩm đả kích sâu sắc xã hội tư sản nhố nhăng, chạy theo lối sống đồi bại đương thời
- Dùng tiếng cười làm vũ khí, tác giả vạch trần bản chất thối nát, rởm đời của tầng lớp thượng lưu
- Tác giả mỉa mai, châm biếm phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “vui vẻ trẻ trung” của tầng lớp thống trị khuyến khích
+ Đoạn trích sử dụng thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa…
+ Sử dụng nghệ thuật mâu thuẫn, đối lập
⇒ Đoạn trích là đỉnh cao nghệ thuật trào phúng sâu cay của tác giả
nghệ thuật trào phúng trong "hạnh phúc của 1 tang gia
1. Mở bài: Từ lâu, nhiều người đã kể "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng và hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. "Số đỏ" như hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Đọc "Số đỏ" người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đấy là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kì lợi hại trong chương XV có nhan đề "Hạnh phúc của một tang gia"
2. Thân bài:
* LĐ1: Những mâu thuẫn trào phúng (sử dụng NT đối lập)
- Tiêu đề: Lạ lùng, đầy mau thuẫn: tang gia><hạnh phúc => Phơi bày sự thật của đời sống, sự thật cảu một XH mà nhà văn muón mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.
- Tâm trạng của những người có tang: không hề đau đớn, bối rối mà ngược lại, tất cả đều theo đuổi một niền hạnh phúc riêng:
+ Ông Phán mọc sừng bỗng tháy cái "sự mọc sừng" của mình đột nhien tăng giá them vài nghìn đồng
+ Cụ cố Hồng sung sướng "mơ màng...khóc mếu" để đc người ta ca ngợi "1 đám ma như thế, 1 cái gậy như thế"
+ Ông Văn Minh: háo hức đc chia gia tài "Cái trúc thư kia..."
+ Bà Văn Minh: sung sướng vì có dịp để mặc "tang phục tân thời"
+ Tú Tân: Sốt sắng để đc thể hiện tài chụp ảnh
=> NT trào phúng biểu hiện ở sự đối lập, mâu thuẫn giữa tang gia><hạnh phúc, vẻ mặt bên ngoài><bản chất bên trong
=> Lũ con cháu vô ơn, bất nhân, bất hiếu
- Tâm trạng người ngoài:
+ Ông Typn: vui sướng vì đc lăng xê mốt
+ Cảnh sát: ddc thuê nên "sng sướng đến cực điểm", chăm lo chu đáo, hết lòng cho đám tang.
=> Bức trang bao quát XH bạc tình bạc nghĩa, thực dụng
- Đưa tang: Đám ma to, sang trọng, nổi bạt (dư thừa vật chất) của 1 gia đình danh giá nhưng trống vắng tình người
=> Thói háo danh, khoe mẽ rởm đời
=> Sự giả dối đến đáng sợ
* LĐ2: Khắc họa sinh động chân dung trào phúng
- Chân dung đám đông:
+ Sát linh cữu là những quý ông tai to mặt lớn: khoe huân huy chương, râu ria đủ kiểu. Họ đi sát linh cữu, cảm động ko phải vì người trong quan tài hay tiéng kèn đám ma ai oán, não nùng mà cảm động vì làn da trắng thập thò trong lớp áo voan mỏng của cô Tuyết.
+ Giai thanh gái lịch đi ngay sau linh cữu thì chỉ biết chưng diện mốt, bàn bạc, nói chuyện về cái tủ mới sắm, cái ao mới may, mải chim nhau, cười tình nhau, ghen tuông nhau và mỉa mai thay, họ làm những việc đó bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đưa tang.
=> Đời sống tâm hồn nông cạn, chạy theo thú vui vạt chất tầm thường => Biểu hiẹn của sự suy đồi đạo đức
- Chân dung cá nhân:
+ Sự xuất hiện của Xuan tóc đỏ => tăng thêm sự giả dối, lố bịch
+ Cạu Tú Tân: đạo diẽn chụp ảnh kỉ niệm
+ Phán mọc sừng: Khóc tưởng chừng ngất đi nhưng vãn cố dúi vào tay Xuân 5 đồng.
=> Nổi bật sự giải dối. Bộ mặt xá hội thượng lưu háo danh, "chó đểu" và thực dụng
* LĐ3: Ngôn ngữ và hình ảnh trào phúng
- Từ ngữ gây cười: liệt kê các kiểu râu ria...
- Cách nói mỉa mai, châm biếm sâu cay
- Hình ảnh gây cười: Lợn quay đi long...
3. Kết bài: Những chuyện VTP viét trong chương sách là thật ư? lẽ nào...Những điều ấy hoàn toàn là hư cấu ư? Nhưng những đièu ấy đều hợp lí lắm mà, và hình như đều có thật cả. Ngòi bút trào phngs của VTP đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiẹn ra lồ lộ trên đó nổi lên 2 điều lớn nhất: sự tàn nhãn và dối trá.
1. Mở bài: Từ lâu, nhiều người đã kể "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng và hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. "Số đỏ" như hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Đọc "Số đỏ" người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đấy là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kì lợi hại trong chương XV có nhan đề "Hạnh phúc của một tang gia"
2. Thân bài:
* LĐ1: Những mâu thuẫn trào phúng (sử dụng NT đối lập)
- Tiêu đề: Lạ lùng, đầy mau thuẫn: tang gia><hạnh phúc => Phơi bày sự thật của đời sống, sự thật cảu một XH mà nhà văn muón mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.
- Tâm trạng của những người có tang: không hề đau đớn, bối rối mà ngược lại, tất cả đều theo đuổi một niền hạnh phúc riêng:
+ Ông Phán mọc sừng bỗng tháy cái "sự mọc sừng" của mình đột nhien tăng giá them vài nghìn đồng
+ Cụ cố Hồng sung sướng "mơ màng...khóc mếu" để đc người ta ca ngợi "1 đám ma như thế, 1 cái gậy như thế"
+ Ông Văn Minh: háo hức đc chia gia tài "Cái trúc thư kia..."
+ Bà Văn Minh: sung sướng vì có dịp để mặc "tang phục tân thời"
+ Tú Tân: Sốt sắng để đc thể hiện tài chụp ảnh
=> NT trào phúng biểu hiện ở sự đối lập, mâu thuẫn giữa tang gia><hạnh phúc, vẻ mặt bên ngoài><bản chất bên trong
=> Lũ con cháu vô ơn, bất nhân, bất hiếu
- Tâm trạng người ngoài:
+ Ông Typn: vui sướng vì đc lăng xê mốt
+ Cảnh sát: ddc thuê nên "sng sướng đến cực điểm", chăm lo chu đáo, hết lòng cho đám tang.
=> Bức trang bao quát XH bạc tình bạc nghĩa, thực dụng
- Đưa tang: Đám ma to, sang trọng, nổi bạt (dư thừa vật chất) của 1 gia đình danh giá nhưng trống vắng tình người
=> Thói háo danh, khoe mẽ rởm đời
=> Sự giả dối đến đáng sợ
* LĐ2: Khắc họa sinh động chân dung trào phúng
- Chân dung đám đông:
+ Sát linh cữu là những quý ông tai to mặt lớn: khoe huân huy chương, râu ria đủ kiểu. Họ đi sát linh cữu, cảm động ko phải vì người trong quan tài hay tiéng kèn đám ma ai oán, não nùng mà cảm động vì làn da trắng thập thò trong lớp áo voan mỏng của cô Tuyết.
+ Giai thanh gái lịch đi ngay sau linh cữu thì chỉ biết chưng diện mốt, bàn bạc, nói chuyện về cái tủ mới sắm, cái ao mới may, mải chim nhau, cười tình nhau, ghen tuông nhau và mỉa mai thay, họ làm những việc đó bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đưa tang.
=> Đời sống tâm hồn nông cạn, chạy theo thú vui vạt chất tầm thường => Biểu hiẹn của sự suy đồi đạo đức
- Chân dung cá nhân:
+ Sự xuất hiện của Xuan tóc đỏ => tăng thêm sự giả dối, lố bịch
+ Cạu Tú Tân: đạo diẽn chụp ảnh kỉ niệm
+ Phán mọc sừng: Khóc tưởng chừng ngất đi nhưng vãn cố dúi vào tay Xuân 5 đồng.
=> Nổi bật sự giải dối. Bộ mặt xá hội thượng lưu háo danh, "chó đểu" và thực dụng
* LĐ3: Ngôn ngữ và hình ảnh trào phúng
- Từ ngữ gây cười: liệt kê các kiểu râu ria...
- Cách nói mỉa mai, châm biếm sâu cay
- Hình ảnh gây cười: Lợn quay đi long...
Nêu những nét chính trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia. Qua đoạn trích này Vũ Trọng Phụng đã tập trung phê phán điều gì của xã hội tư sản đương thời?
Nét chính về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua “Số đỏ”:
- Là cuốn tiểu thuyết hiện thực trào phúng, tố cáo xã hội thượng lưu bịp bợm, giả dối, chạy theo đồng tiền
- Xã hội tri thức, bản chất đầy mâu thuẫn trào phúng thể hiện:
+ Nhan đề chứa tính hài hước
+ Một tình huống trào phúng cơ bản, nhà văn triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau tạo nên một màn đại hài kịch phong phú và rất biến hóa
+ Thủ phá đối lập làm nổi bật bản chất của nhân vật, xã hội
+ Giọng điệu miêu tả, mỉa mai, giễu nhại
+ Cách chơi chữ, so sánh bất ngờ, độc đáo
→ Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén trong Hạnh phúc một tang gia, tác giả phê phán thói trưởng giả, sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ
Hãy chỉ ra những mâu thuẫn và những chân dung trào phúng ở đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
Mâu thuẫn sự trào phúng:
+ Nguyên tắc gây cười phát hiện, thể hiện mâu thuẫn nghịch lý, những điều trái khoáy ngược đời bóc trần bản chất hiện tượng
+ Mâu thuẫn trào phúng qua nhan đề: tính chất ngược đời, lố lăng
+ Mâu thuẫn giữa giả và thật: giữa hình thức thể hiện của con cháu nhà cụ cố với thực trạng đau xót của một đám tang. Những kẻ rởm đời, lọc lõi lại được tôn vinh, ngợi ca. Những bức tranh biếm họa về nhân vật lần lượt hiện ra
⇒ Tác giả tái hiện được thực trạng xã hội thượng lưu với bản chất gian manh, lố bịch, rởm đời lúc bấy giờ.
Nêu nghệ thuật trào phúng của truyện Vi Hành ( Nguyễn Aí Quốc )
Cấm cop mạng
TL
"Vi hành" là một tác phẩm văn chương đích thực, mặc dù người viết chỉ coi đó là một hành vi cách mạng. Nếu không có một trái tim yêu nước, không có lòng căm thù bọn phong kiến tay sai, bọn thực dân xâm lược, không có sự phẫn uất nhục nhã khi chứng kiến cảnh ô nhục của Khải Định thì sẽ không có tác phẩm "Vi hành" ra đời. Tuy nhiên cũng cần khẳng định, để làm nên thành công rực rỡ của tác phẩm "Vi hành" một phần là do sự hiểu biết sâu sắc về văn học phương Tây và một năng khiếu trời phú cho Nguyễn Ái Quốc. Tác giả đã sáng tạo được những phần nữa là tình huống nhẫm lẫn, vẽ nên bức chân dung trào phúng độc đáo về Khải Định. Tác phẩm được viết năm 1923, nhưng chúng ta thấy hoàn toàn có lí khi xếp nó vào dòng văn học cách mạng Việt Nam 1930 – 1945.
HT
Trong sáng tạo văn học của Nguyễn Ái Quốc nghệ thuật trào phúng chiếm một vị trí đặc biệt. Với nghệ thuật trào phúng Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày bản chất tàn bạo, giả dối của chế độ thực dân Pháp. Cũng với nghệ thuật ấy. Người bày tỏ thái độ khinh bỉ đối với bọn vua quan bù nhìn bán nước cầu vinh, chỉ riêng đối với sự kiện Khải Định sang Pháp dự cuộc Đấu xảo thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc và vở kịch Con rồng tre lên án và chế giễu sâu cay ông vua bù nhìn. Nhân kỉ niệm một năm chuyến đi ô nhục ấy, Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn Vi Hành, biến Khải Định thành đối tượng của những cuộc đàm tiếu khinh bỉ. Vấn đề đặt ra cho tác giả là phải sáng tạo một hình thức nghệ thuật mới để không lập lại chính mình. Sự thành công của tác phẩm Vi hành đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật dồi dào, sắc bén của nhà văn Nguyễn Ái Quốc.
Thật vậy, nếu trong hai tác phẩm Lời than vãn của bà Trưng Trắc và Con rồng tre, Khải Định trực tiếp xuất hiện, thì ở đây, trong tác phẩm Vi hành, vua Khải Định vắng mặt. Vậy làm thế nào để cho Khải Định xuất hiện, đặng nhận lấy lời đàm tiếu nhục nhã và lời tố cáo sắc bén? Nguyễn Ái Quốc đã dùng biện pháp hóa không thành có- biện pháp hiểu lầm, nhận lầm một người An Nam là nhà vua đi "vi hành", để tố cáo, chế giễu một cách cay độc. Ai là người có thể nhận lầm như vậy? Đó không thể là người An Nam, thần dân của ngài. Đó chỉ có thể là người dân Pháp hiếu kì và từ lâu đã không xem vua chúa như một đấng bề trên. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo nên một đôi nam nữ người Pháp nhận lầm vua An Nam trên xe điện, và truyện ngắn mở đầu bằng cuộc tranh luận của họ. Chàng trai quả quyết đó chính là nhà vua, còn cô gái, người đã thấy nhà vua ở trường đua thì quả quyết là không phải, vì thấy thiếu mũ măng, nhẫn vàng, hạt cườm. Từ hai cách hiểu ấy mở ra hai hướng đàm tiếu: đàm tiếu về trang phục nhà vua và đàm tiếu về việc "vi hành" của ông.
Việc đàm tiếu về trang phục nhà vua do đôi thanh niên nam nữ người Pháp thực hiện. Lợi dụng cách cảm nhận ngộ nghĩnh của họ đối với cách ăn mặc xa lạ. Nguyễn Ái Quốc đã biến ông vua thành một trò cười rẻ tiền: đầu đội chụp đèn, quấn khăn, tay đeo đầy nhẫn, mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như quả chanh, không một chút uy nghi, đường bệ. Hơn thế, người bạn gái đã trông thấy nhà vua, hình dung vua là người "đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm", y như một mụ đàn bà. Còn người thanh niên thì xem vua như một trò vui mắt không phải mất tiền như xem "vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên", hoặc "trò leo trèo, nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô". Thậm chí còn tung tin Nhà hát Múa rối định ký hợp đồng thuê nhà vua biểu diễn! Thật không còn lời báng bổ, khinh miệt nào hơn đối với một đức Hoàng Thượng! Nhưng đó là sự thật: Khải Định chỉ đóng được một vai hề rẻ tiền trong lịch sử!
Việc đàm tiếu về truyện "vi hành" do kẻ bị nhận lầm – tác giả bức thư gửi cho cô em họ – thực hiện qua lời tâm sự trong thư. Đây là lời của một người An Nam, am hiểu nội tình nước Nam. Ở đây Nguyễn Ái Quốc dùng biện pháp "quá mù ra mưa" – nhân có người nói nhà vua "vi hành", thế là người anh họ trong thư liền liên hệ với các cuộc "vi hành" của các vị vua vĩ đại như vua Thuấn, vua Pie, và bình luận nhạo báng về cuộc "vi hành" tưởng tượng của vua Nam. Đây là một đoạn văn nữa mỉa mai sắc bén, từ nào cũng nhằm phơi trần thân phận và nhân cách hèn hạ của tên vua.
Phân tích hình tượng nhân vật Khải Định, qua đó làm rõ tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén của Nguyễn Ái Quốc.
Hình tượng nhân vật Khải Định:
- Ngoại hình:
+ da vàng bủng như chanh, mũi tẹt, mắt xếch
+ Trang phục lố lăng như khoe của
+ Điệu bộ lấm lét, lúng túng như phường ăn cắp vụng trộm
- Hành vi: nhút nhát, lén lút
→ Bản chất vua bù nhìn, vô dụng được hiện lên chân thực, khách quan: ông vua nhưng không khác thằng hề, con rối mua vui cho dân Pháp, sang Pháp để làm tay sai cho thực sân Pháp
- Sức chiến đấu mạnh mẽ của tác phẩm:
+ Tố cáo chế độ chính sách dã man, bịp bợm của thực dân
+ Lên án chính sách ngu dân, đầu độc người dân bằng thuốc phiện, rượu
+ Bản chất của những tên thực dân lừa bịch, mang danh khai hóa nhưng thực chất cướp nước
+ Tố cáo chế độ nhà tù giam cầm người yêu nước trên khắp đất Pháp
"Không những đi ngược lại lí trí con người...điểm xuất phát của nó". Chỉ ra nét đặc sắc về nghệ thuật lập luận và tác dụng của nghệ thuật đó trong đoạn văn