Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết

- Khi Thúy Kiều khi nói về Từ Hải, nàng lại mang một sắc thái khác. Tự nhận mình hèn mọn, nhỏ bé, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên. Thể hiện sự chân thành, nhỏ nhẹ, khiêm nhường đầy tình nghĩa của Kiều.

Nguyen thi khanh an
Xem chi tiết
Đoàn Trần Quỳnh Hương
23 tháng 10 2023 lúc 21:56

- "Truyện Kiều" gồm ba phần: Gặp gỡ; đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ.

- Tác giả tập chung chủ yếu về Thúy Kiều: nhan sắc, tài năng, cuộc đời, số phận.

- Câu thơ tác giả dự báo cuộc đời đầy chuyên chuyên trắc trở: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, "Chữ Tài liền với chữ Tai một vần"...

- Thuý Kiều sinh ra trong một gia đình "thường thường bậc trung" nhưng đó là gia đình gia giáo hạnh phúc.

Duyên Bé
Xem chi tiết
Amee
26 tháng 3 2021 lúc 22:33

 tham khảo

Khi gia đình Kiều bị vu oan ,cha cùng em trai nàng bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn, Kiều đã bán mình làm vợ lẽ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và em, cứu gia đình. Chính vì vậy mà Thúy Kiêu đã hi sinh mình làm tròn chữ hiếu thì Thúy Vân, em gái phải thay Kiều làm tròn chữ tình. Hơn nữa Vân là người tài sắc xứng đáng với Kim Trọng. Trao duyên cho Vân Kiều thấy an tâm hơn.

Đăng minh
Xem chi tiết
Nguyễn
23 tháng 10 2021 lúc 13:40

tham khảo:

Trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, có thể nói đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất, xúc động nhất khi miêu tả cảm xúc, tâm trạng của con người. Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh để ngụ tình, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, đại thi hào đã làm nổi bật được tâm trạng sầu não, cô đơn, buồn nhớ, hãi hùng của nàng Kiều, chuẩn bị bước vào cuộc đời đầy sóng gió “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” của Kiều. Trong suốt 15 năm lưu lạc đó, Kiều phải chịu biết bao cay đắng tủi nhục. Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng cảm thông chia sẻ với nàng. Mỗi một hoàn cảnh Kiêu có một nỗi đau riêng, một tâm trạng riêng, ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du đã diễn tả những nỗi niềm sâu kín của nàng. Đoạn trích thuộc phần thứ hai của tác phẩm và là một bức tranh tâm tình đầy xúc động của những ngày tháng đầy cô đơn tuyệt vọng (từ câu 1033 đến câu 1054).

 

Sau khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, Kiều bị đưa về Lâm Tri, nơi Mã Giám Sinh chung vốn với Tú bà mở cửa hàng thanh lâu để tiếp khách làng chơi. Biết bị lừa dối, lại còn bị mụ Tú bà đánh đập hành hạ, quá uất ức nàng đã rút đao sẵn bên mình để quyên sinh. Sợ Kiều liều mình thì “vốn liếng đi đời nhà ma”, Tú bà đành phải chăm sóc thuốc thang rồi đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích...

 

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”

 

“Khoá xuân”, nhà thơ mỉa mai, thực chất đây là những ngày Kiều bị Tú bà giam lỏng. Vừa trải qua những đau khổ, hãi hùng này lại bị nhốt ở nơi vắng vẻ, tâm trạng Kiều càng cảm thấy cô đơn, chán ngán. Từ trên lầu cao nhìn ra chung quanh là cả một không gian bát ngát, tất cả đều xa vời:

 

“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

 

Bốn bề bát ngát xa trông."

 

"Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” - Núi mờ xa, trăng trên trời cao dẫu có muốn kéo lại cho gần để làm bạn thì trắng vẫn vời vợi, quay nhìn ra bốn bề thấy xa vắng tít tắp, chỉ có cát vàng cồn nọ nối tiếp nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm. Không có bóng dáng con người, không gian vắng lặng đến rợn người, ngay cả cảnh vật cũng ở nơi xa xôi. Nàng đắm chìm trong nỗi niềm buồn tủi cô liêu, lặng lẽ như một chiếc bóng may chỉ còn “Mây sớm đèn khuya" làm bạn tâm tình với nàng. Trong những giây phút âm thầm cô quạnh đó, hình ảnh những người thân lại hiện về, nàng nhớ Kim Trọng, nhớ về một mối tình trong sáng đẹp đẽ. Đêm trăng này gợi nhớ lại một đêm trăng trước hai người cùng nhau thề nguyện ước hẹn dưới ánh trăng. Nàng thương Kim Trọng vẫn tháng ngày mong nhớ, không biết nàng ở nơi góc bể chân trời nao:

 

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

 

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

 

Cho dù tình yêu chỉ còn trong ki niệm xót xa nhưng tấm lòng son sắt thủy chung của nàng với Kim Trọng vẫn không nhạt phai.

 

“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

 

Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy đau thương của Kiều - Trọng khi chia li. “Trâm gãy gương tan" nàng vẫn dành cho người yêu bao tình thương nỗi nhớ. Cảnh ngộ của Kiều càng thật thương tâm, nhưng nàng thương mình thì ít mà thương người thân thì nhiều. Nàng xót thương cha mẹ già vì thương nhớ con mà sớm hôm mòn mỏi tựa cửa chờ mong, tuổi già sức yếu ai là người chăm nom, cậy nhờ:

 

“Xót người tựa cửa hôm mai

 

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

 

Sân Lai cách mấy nắng mưa

 

Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

 

Giọng thơ rưng lệ, nỗi đau của Kiều như thấm vào cảnh vật thời gian và lòng người bấy lâu nay. Xót thương cha mẹ già, tưởng nhớ người yêu, Kiều lại có cái tình yêu vẹn toàn. Hình ảnh người thân không làm vơi bớt nỗi lẻ loi cô quạnh, trái lại nỗi buồn càng thêm trĩu nặng. Ở tám câu thơ cuối, điệp ngữ “Buồn trông" nơi đầu câu khiến cho nỗi buồn như chất chồng mãi, mỗi câu thơ là một cảnh, một tâm trạng nhưng tựu chung vẫn chỉ là nỗi buồn cô đơn tuyệt vọng thương mình, thương người thân, thương cho thân phận và duyên số.

 

Đây là đoạn thơ hay nhất trong Truyện Kiều. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng buồn trông. Ngoại cảnh và tâm cảnh cùng cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng mà ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương.

 

“Buồn trông cửa bể chiều hôm"

 

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

 

Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện thấp thoáng cánh buồm xa xa đầy ám ảnh.

 

Buồn trông con thuyền ai xa lạ, cánh buồm xa xa thấp thoáng, Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi đất khách quê người. Rồi những cánh hoa trôi nổi dập vùi theo dòng nước có khác nào cuộc đời lênh đênh vô định của nàng:

 

“Buồn trông ngọn nước mới sa

 

Hoa trôi man mác biết là về đâu"

 

Nhìn ra xa, Kiều buồn trông về phía chân mây mặt đất về nội cỏ, nàng chỉ thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo, rầu rầu của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:

 

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu"

 

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

 

“Nội cỏ rầu rầu” tàn úa hiện lên giữa màu xanh nhạt nhòa của chân mây mặt đất chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mù mịt, héo tàn của mình. Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa buồn trông vừa lắng nghe, nghe tiếng gió, gió gào, gió cuốn trên mặt duềnh. Nghe tiếng ầm ầm của sóng không phải sóng reo mà là sóng kêu. Gió và sóng đang bủa vây xung quanh ghế ngồi. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái nhỏ bé, đáng thương:

 

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

 

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

 

Bức tranh nước non con người, cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền trên cửa biển chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ rầu rầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh... mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mỹ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng lẻ loi.

 

Thiên nhiên trong Truyện Kiều chứa đầy tâm trạng, đằng sau mỗi cảnh đều thấp thoáng bóng dáng con người với những nỗi tâm tư thầm kín. Tâm trạng hòa vào cảnh vật, cảnh vật cũng buồn vui với con người! Tả cảnh để ngụ tình là nét nghệ thuật đặc sắc của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích" được xem là dấu son trong tác phẩm Truyện Kiều bất hủ.

 

 

dsfddf
Xem chi tiết
Phùng Ái Nguyên
Xem chi tiết
Huge Roes
19 tháng 10 2021 lúc 7:03

Mở Bài ; Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Có lẽ đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong tác phẩm là những vần thơ tuyệt bút. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.

Kết Bài;Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều bằng nhiều biện pháp ẩn dụ, tượng trưng, hình ảnh ước lệ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
 

Huge Roes
18 tháng 10 2021 lúc 20:55

Mở Bài:

Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã đi vào thi ca nhạc họa nuôi một nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận. Mặc dù trong xã hội phong kiến "trọng nam khinh nữ", người phụ nữ ít có cơ hội xuất hiện trong các tác phẩm văn học nhưng đến thế kỉ XVI trở đi, người phụ nữ đã bước chân vào nền văn học trung đại Việt Nam một cách rất tự nhiên, rất chân thực. Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm như: "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ, "Truyền kì tân phả" của Đoàn Thị Điểm, "Chinh phụ ngâm khúc" của Đặng Trần Côn...Kết Bài:Qua chân dung vẻ đẹp nhan sắc, tài năng của Thúy Kiều, chúng ta thấy được Nguyễn Du thực sự rất trân trọng, đề cao những giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ. Những dự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh là sự xuất phát từ tấm lòng cảm thông, xót thương con người của nhà thơ. Đó là vẻ đẹp nhân văn sáng ngời trong ngòi bút tài hoa của Đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du.
Đoàn Thị Linh Chi
Xem chi tiết
Thảo Phương
10 tháng 10 2016 lúc 21:15
thuý kiều báo ơn với thúc sinh bởi vì có ơn cứu nàng ra khỏi lầu xanh, tuy thúc sinh chưa bao giờ đối xử tốt với kiều lần nào ( bị vợ cấm mà) nhưng thuý kiều vẫn mang ơn điều này cho chúng ta thấy rõ được kiều là người trọng ơn nghĩa, khi trả ơn thúc sinh kiều nhắc về hoạn thư bởi vì kiều mún nói thúc sinh là con người như vậy tại sao lại có thể chung sống cùng 1 người ác độc đến như vậy, khi nói về thúc sinh giọng kiều mang vẻ biết ơn, trầm lắng suy nghĩ, khi nói về hoạn thư kiều mang một nổi nùn và có vẻ hơi giận hoạn thư về việc hoạn thư giận hờn kiều vô cớ.
khi báo oán thuý kiều nói với giọng điệu thông cảm bởi vì cũng như bao phụ nữ khác không ai muốn chia sẽ chồng mình cho người khác bởi vậy nên kiều cũng đã dần thông cảm cho hành động ghen tuông của hoạn thư tuy vậy kiều vẫn muốn trừng phạt hoạn thư vì đã đối xử bạc bẻo với kiều
hoạn thư một con người gian xảo đã dùng rất nhiều hành động : "khóc lóc thảm thiết, quỳ xuống cầu xin..........." để tác động đến kiều nhằm mong kiều tha thứ, và những việc làm đó đã có ích với trái tim nhân từ, 1 tâm hồn không thù hận kiều sẵn sàng tha thứ cho hoạn thư 
hoạn thư là 1 con người vô cùng gian xảo và độc ác, tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận sự đáng thương của hoạn thư vì có một người chồng trăng hoa vì vậy hoạn thư đã trở nên độc ác và luôn ghen tuông quá mức như vậy
thuý kiều tha cho hoạn thư vì hiểu cho nổi đau của hoạn thư, là phụ nữ không ai có thể chấp nhận việc chia sẽ chồng, việc làm này vừa đáng trách vừa đúng , đáng trách ở chổ nếu kiều tha cho hoạn thư thì không may sao lại có một nàng kiều thứ 2 bị đối xử như vậy. nhưng nếu hoạn thư biết lổi mà sửa đổi thì điều này đáng khen  
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
17 tháng 1 2019 lúc 11:15

Hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn

- Đúng với dụng ý tác giả: tái hiện cuộc đời đầy đau khổ của nàng Kiều tài hoa mệnh bạc

- Số câu thơ dành miêu tả Thúy Kiều nhiều hơn

- Thúy Vân gợi tả về sắc, tính cách còn, Thúy Kiều gợi tả vẻ đẹp sắc, tài, tâm hồn

- Tả Thúy Vân trước làm nổi bật Thúy Kiều

Vy Võ
Xem chi tiết
nthv_.
3 tháng 10 2021 lúc 20:29

Tham khảo:

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Nguyễn Du nhà thơ thiên tài của dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc.

– Giới thiệu tác phẩm: Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ viết về cuộc đời của Thúy Kiều – người con gái tài hoa bạc mệnh.

II. Thân bài

– Thúy Kiều người con gái có vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân khiến “mây thua nước tóc”, “liễu hờn kém xanh”

=> Vẻ đẹp khiến nhiên nhiên cũng phải ganh tị

– Thúy Kiều vừa có sắc vừa có tài năng cầm, kì, thi, họa

– Số phận chung của người phụ nữ xưa phải chịu những tủi cực, khó khăn, sự bất công của xã hội. Cuộc đời của họ như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, như thân bèo trôi nổi vô định không biết trôi dạt về đâu

– Những đức tính cao đẹp của Thúy Kiều đại diện cho người phụ nữ xưa dưới chế độ phong kiến

+ Chữ hiếu: Thúy Kiều thật đáng thương khi rơi vào hoàn cảnh gia đình tan tác, nàng đã phải hy sinh chính hạnh phúc của mình để cứu lấy gia đình, cứu lấy cha -> Đặt chữ hiếu lên hàng đầu, gạt bỏ tình yêu với Kim Trọng -> Nàng bán thân mình để chuộc cha

=> Hành động chứng minh được lòng hiếu thảo, đức hy sinh – đức tính cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội khi bị đẩy đến bước đường cùng.

+ Chữ nghĩa: Đối với tình yêu thì Thúy Kiều là một người chung thủy, son sắc. Nàng luôn khao khát một tình yêu đẹp, một tình yêu đúng nghĩa. Nhưng trải qua những mối tình khác nhau càng khiến Kiều thêm thấm thía:

Mối tình với Kim Trọng: vì chữ hiếu mà không được trọn vẹn
Mối tình với Thúc Sinh: Kiều nếm trải thân phận “kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” => tình cảnh điển hình của phụ nữ xã hội phong kiến.
Mối tình với Từ Hải: một mối tình trọn vẹn nhưng ngắn ngủi, người đã giúp Kiều giải oan
III. Kết luận

– Nhân vật Kiều là nhân vật điển hình cho hình tượng người phụ nữ xưa -> Ca ngợi phẩm giá của người phụ nữ

– Tố cáo, lên án xã hội phong kiến thối nát.