Tóm tắt 6 truyện của An-đéc-xen
Mk cần giúp gấp
Cảm ơn
Vì sao người ta gọi truyện ngắn của An-đéc-xen là truyện cổ tích An-đéc-xen.
Vì truyện An-đéc-xen là loại truyện thường mang yếu tố hoang đường, kì ảo, thể hiện ươc mơ của nhân dân ta về chiến thắng cuối cùng của cái thiện và cái ác, sự công bằng và bất công.
Vì câu chuyện đan xen giữa các hiện thực và mộng tưởng
giống như chuyện cổ tích , thể hiện cả ước mơ cao đẹp của cô bé ..
Nhưng cái kết lại ko giống truyện cổ tích .
~ ủng hộ nha ~
Cảm nhận của em về truyện "Cô bé bán diêm" của An-đéc-xen.
Trong chúng ta, chắc là đã có nhiều bạn từng đọc “Bầy chim thiên nga ”, đọc "Nàng tiên cá”,... của An-đéc-xen - nhà văn nổi tiếng Đan Mạch trong thế kỉ XIX. Ông là nhà văn của “mỗi thời, mọi người và mọi nhà” với loại truyện kể cho trẻ em.
Cái phong vị phương Bắc, với hoa tuyết, với cánh thiên nga, với nàng tiên cá, với ngọn lửa diêm thần kì,... như đưa tuổi thơ chúng ta sống với bao giấc mơ huyền ảo, những giấc mơ tuyệt đẹp.
Truyện “Cô bé bán diêm” được An-đéc-xen viết vào năm 1845, khi ông đã có trên 20 năm cầm bút, tên tuổi lừng danh thế giới. Nó thuộc loại truyện vừa thực vừa ảo, vừa mang màu sắc cổ tích thần kì, vừa đậm đà chất thơ trữ tình, gợi lên một tình thương, một vẻ đẹp nhân văn sáng giá. Em bé bán diêm đã chết cóng trong tuyết, với má hồng và đôi môi như mỉm cười tưởng được ru bằng những giấc mơ huyền thoại!
Người đọc từng băn khoăn tự hỏi: mẹ em bé đi đâu? Nhiều người dự đoán em bé mồ côi mẹ. Tuổi thơ đẹp nhất của em là quãng thời gian được sống bên bà nội hiền hậu trong ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh. Cuộc đời em trở nên bất hạnh từ sau ngày bà nội mất, sống bên người bố thô lỗ, cục cằn, em phải“chịu chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa” .
An-đéc-xen dẫn chúng ta đi theo con đường bán diêm của cô bé. Một thời điểm điển hình nói lên sự nghèo khổ, nói lên nỗi bất hạnh tột cùng của một em bé. Đó là một đêm giao thừa “rét dữ dội, tuyết rơi”. Em ra đi đầu trần, lúc đầu có đôi “giày vài phỏng”, nhưng chỉ một lát sau thôi, giày của em, chiếc thì bị xe song mã nghiến, chiếc thứ hai thì bị một thằng bé xa lạ lượm lấy, tung lên trời, và nó bảo đem về “làm nôi cho con chó sau này". Em đi bán diêm trong đêm tối với đôi chân trần nhỏ bé, chẳng mấy chốc “chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét”. Nhìn em, ai mà chẳng thương tâm?
Nhà văn tạo nên hai nghịch cảnh một đêm giao thừa. Một em bé đi bán diêm suốt một ngày mà chẳng bán được một bao diêm nào, “bụng đói cật rét ” đi lang thang trên đường, chẳng được ai bố thí cho em chút đỉnh! Mái tóc và lưng em bám đầy tuyết. Trái lại, cửa sổ mọi nhà đều “sáng rực ánh đèn” và trong phố thì“sực nức mùi ngỗng quay”. Đó là hai cảnh trái ngược. Câu chuyện trở nên thấm vị đợm cay đắng! Trên bước đường bán diêm kiếm sống giữa đêm giao thừa, em bé đang sống trong cô đơn, buồn tủi. Một quá khứ hạnh phúc trở về trong tâm hồn em. Mái nhà xưa với dây trường xuân, với hình ảnh bà nội, đầm ấm thế, yên vui thế! Nay còn đâu? Mái nhà hiện tại thì tồi tàn, suốt ngày em chỉ luôn nghe lời mắng chửi. Sẽ phận em bé bán diêm thật cay đắng và đáng thương biết bao! Một tuổi thơ thấm đầy lệ. Đằng sau cảnh đời, số phận em bé bán diêm đêm giao thừa là một cái nhìn dõi theo của nhà vãn An-đéc-xen với nhiều trắc ẩn, với nỗi lo khôn nguôi.
Cô bé bán diêm ngoài cái rét, đơn côi,... còn có một nỗi đau tinh thần, luôn luôn bị giày vò, ám ảnh hết sức nặng nề. Ở nhà thì bị bố mắng nhiếc chửi rủa, lang thang trong đêm tuyết, giao thừa, nếu khống bán được ít bao diêm hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về, nhất định em sẽ bị bố đánh! Nỗi bất hạnh này thành đáng sợ, nó luôn luôn đè nặng tâm hồn em. Có biết rằng: “ tình thương của cha mẹ là thiên đường tuổi thơ” mới thấy cái sâu sắc trong tấm lòng nhân ái của nhà văn Đan Mạch. Ông nhắc khẽ ai đó đang được sống yêu thương, sung sướng trong vòng tay bố mẹ mình nên biết cảm thông với cái khổ tâm, nỗi thương đau của các bạn nhỏ bất hạnh như cô bé bán diêm này. Bởi lẽ, biết san sẻ cùng đồng loại cũng là hạnh phúc.
Phần cảm động nhất, hay nhất khi tác giả nói về những cơn mơ của em bé bán diêm. Em đã đánh hết cả một bao diêm trên tay. Lúc đầu là “đánh liều” quẹt một que, với ý định “sưởi cho đỡ rét một chút”. Ngọn lửa của một que diêm sao có thể chống lại cả một dêm dày sương tuyết? Lúc đầu em chỉ thấy, em chỉ phát hiện ra ngọn lửa diêm “xanh lam”, rồi “trắng ra”, “rực hồng lên quanh que gỗ trông đến vui mắt”. Từ niềm vui nhỏ nhoi, bình dị của một em bé con nhà nghèo như thế, em đã bước vào những cơn mơ kì diệu. Mỗi que diêm từ tay em bé quẹt lên là có một ngọn lửa "thần kì”. Que diêm thứ nhất “sáng rực như than hồng " làm cho em "tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng”. Ngọn lửa trong lò sưởi ấy “nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”. Đó cũng là mơ ước của những thân phận nghèo khổ trên đời giữa mùa đông giá rét dài lê thê! Nhà văn có cái tâm đẹp, cái tấm lòng nhân hậu và giàu trí tưởng tượng mới đồng cảm với những em bé nghèo khổ qua những mơ ước bình dị như vậy.
Que diêm thứ hai bùng cháy dẫn hồn em đến một mái nhà êm ấm có “tấm rèm bằng vải màu ”, có một mâm cỗ sang trọng. Một bàn ăn có khăn trải bàn trắng tinh, có bát đĩa bằng sứ quý giá, có ngỗng quay. Em đang “bụng đói cật rét” mà, nên em thấy có một điều kì diệu nhất là ‘ângỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cá dao ăn phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em”. Que diêm tắt, mộng tan. Em bé bán diêm vẫn ngồi cô đơn một mình dưới trời tuyết trong đêm giao thừa. Hỡi ai còn mang trong lòng tình người nhất định sẽ chảy lệ khi nghĩ về thân phận em bé sau khi que diêm thứ hai tắt, mộng tan.
Lại que diêm thứ ba nữa bùng cháy. Em bé như thấy trước mắt mình một cây thông Nô-en được trang trí lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi... Em đang giơ tay với về phía cây... thì diêm tắt. Lần này, em thấy các ngọn nến bay lên cao mãi rồi “biến thành những ngôi sao trên trời”. Chất văn và cảm xúc của câu chuyện kể đã mang một nồng độ mới. Từ ngọn nến trên cây thông Nô-en (trong mơ) em nghĩ đến trời sao lấp lánh, rồi chập chờn về một ngôi sao đổi ngôi, một linh hồn nào đó đã “bay lên trời với Thượng đế”. Cũng cần cảm thụ được hình ảnh Thượng đế trong câu chuyện kể của An-đéc-xen, đó là một biểu tượng về niềm tin hướng tới cái vô cùng cao cả, thiêng liêng và tốt đẹp. Thượng đế trong ước mơ, chứ không phải trong quan niệm của nhiều tôn giáo, cũng như Tiên, Phật trong cổ tích Việt Nam vậy.
Em bé chìm dần vào giấc mơ huyền diệu tuổi thơ khi em quẹt que diêm thứ tư. Trong ánh lửa xanh tỏa ra từ cây diêm, em bé “ nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em”. Và lần này cũng vậy, diêm cháy rồi tàn, làm tan giấc mộng: ‘Que diêm tắt phụt, và áo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến”. Đã hơn một thế ki trôi qua từ ngày An-đéc-xen viết truyện này (1845) nhưng người đọc khắp hành tinh - những cô, cậu học trò nhỏ bé đáng yêu - hình như vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời nguyện cầu của cô bé bán diêm tội nghiệp. Cháu vẫn ngoan ngoãn đấy bà ơi! “Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà..”.
Chập chờn trong mơ tưởng. Đêm càng về khuya, rét càng dữ và tuyết càng phủ dày mặt đất. Diêm nối nhau chiếu sáng. Bà em hiện lên to lớn và đẹp lão. Bà nội cầm tay em bay lên cao, cao mãi "chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa ” em nữa. Hai bà cháu đã về chầu Thượng đế”.
Cái tài của An-đéc-xen là đã nói về cái chết của em bé bán diêm, chết đói, chết rét trong tuyết mà không gợi ra sự bi thảm hãi hùng. Em chưa chết và em không chết! Em đã cùng bà nội giã từ cái hiện thực cay đắng, phũ phàng và côi cút này để bước sang thế giới mới tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Đó là nơi mơ ước của em; lên trời với Thượng đế chí nhân. Hình ảnh em bé bán diêm chết nằm trên tuyết, giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn “có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười ” trong ngày mồng một Tết là một hình ảnh nhiều ý nghĩa, gợi lên bao xót xa trong lòng người. Bầu trời thì xanh nhạt, mặt trời lên chói chang, tuyết vẫn phủ mặt đất. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Và họ bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”. Trái đất và bầu trời vẫn đẹp. Vẫn có kẻ vô tình trước nỗi đau của đồng loại. Đời vẫn nhiều nghịch cảnh đau buồn như “tuyết vẫn phủ kín mặt đất”. Ai mà biết được “cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm ?
Đọc truyện "Cô bé bán diêm”, hình tượng ngọn lửa - diêm là hình tượng lấp lánh nhất”. Đó là ngọn lửa của ước mơ tuổi thơ về mái ấm gia đình, về ấm no và hạnh phúc, được ăn ngon và vui chơi, ước mơ về tình thương gia đình mà ông bà, cha mẹ đem lại cho con cháu. Từ ngọn lửa - diêm đã hóa thành những ngôi sao trên trời... để soi đường cho em bé bay lên với Thượng đế. Qua ngọn lửa và ngôi sao sáng An-đéc-xen đã cảm thông, trân trọng, ngợi ca những mơ ước hoặc là bình dị hoặc là kì diệu của tuổi thơ. vẻ đẹp nhân văn của truyện “Cô bé bán diêm" được thể hiện tài tình qua hình tượng ngọn lửa”. Và ông cũng nhắc khẽ mọi người phải biết san sẻ tình thương, đừng có phũ phàng hoặc vô tình trước nỗi đau, bất hạnh của các em nhỏ. An-đéc-xen có một lối viết nhẹ nhàng. Giá trị nhân bản của truyện “Cô bé bán diêmm’ giúp ta thấy được, ông là nhà văn của “mọi thời, mọi người và mọi nhà” như Huy-gô, đại văn hào Pháp đã nói. Hãy nghĩ đến và phấn đấu vì một ngày mai - một ngày mai tươi đẹp - cho tuổi thư trong ấm no, hạnh phúc và ca hát, hòa bình.
Truyện cổ An-đéc-xen đã từng đi qua biết bao tuổi thơ của con người. Nó gợi lên cho người đọc trí tưởng tượng phong phú, đồng thời cũng gửi gắm trong đó nhiều thông điệp của tác giả. Không ai có thể quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ trong "Cô bé bán diêm" cùng một kết thúc buồn nhưng nhẹ nhàng, giàu tình người.
Trong mùa đông giá rét năm ấy, có một cô bé mồ côi đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Em không dám về nhà vì nếu chưa bán được diêm, em sẽ bị cha đánh. Trong đêm giao thừa, em đã "ngồi nép trong một góc tường", "thu đôi chân vào người". Em không thể về vì biết "nhất định cha em sẽ đánh em". Một cô bé đáng thương vừa thiếu đi hơi ấm của ngọn lửa vừa thiếu đi hơi ấm của tình người.
Em thầm mong có một que diêm để quẹt lấy hơi ấm. Ước ao bé nhỏ ấy em không dám thực hiện chỉ đơn giản bởi em sợ mình sẽ làm hỏng mất bao diêm. Nhưng rồi cô bé ấy cũng "đánh liều quẹt một que". Nhờ vậy, em như được nhìn thấy phép màu quá ngọn lửa bé nhỏ: "lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Em nhận ra có "một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng". Có lẽ giữa sự khắc nghiệt của hoàn cảnh thực tại đã khiến em có một ước mơ giản đơn nhưng lại quá xa vời. Que diêm vụt tắt là lúc giác mơ của em cũng kết thúc và em được trở về với hiện tại. Em tự mình hình dung ra những lời mắng chửi thậm tệ của cha. Nỗi lo sợ vây kín tâm hồn em.
Không chỉ phải chống chọi với cái giá rét của mùa đông, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Ánh sáng của ngọn lửa que diêm thứ hai rực lên cũng là lúc bức tường xá xịt kia trở thành một "tấm rèm bằng vải màu". Em ngập tràn hạnh phúc khi nhìn thấy : "Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay". Nhưng tất cả cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Không những thế, em còn chứng kiến sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường. Thương em bao nhiêu, ta càng thấy oán trách sự vô tâm của xã hội em sinh ra và lớn lên.
Và một lần nữa, que diêm lại sáng bừng lên, cho em "một cây thông Nô-en", như trả lại tuổi thơ cho em: "Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng". Niềm vui của em vừa trỗi dậy rồi cũng vụt tắt như que diêm kia. Tất cả những gì em nhìn thấy cũng chỉ là ảo ảnh. Em không thể đưa tay chạm vào, mà chỉ có thể cảm nhận trong phút chốc qua trí tưởng tượng của bản thân. Trước đêm đông giá rét, em đang dần kiệt sức và gục ngã.
Thường những phút cuối đời, người ta thường mong ước được ở bên cạnh những người thân yêu. Có lẽ vì thế nên khi thắp lên que diêm tiếp theo, em nhìn thấy người bà hiền hậu mà em rất mực kính yêu. Em có cảm giác như mình được trở về với quãng thời gian ấm áp khi xưa. Em mong mỏi, khát khao được ở bên bà: "Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu." Trong lời tâm sự ấy, ta hiểu được những vất vả, khó khăn đến cùng cực mà em đnag phải gánh chịu. Điều cần thiết với em lúc này không phải là được sưởi ấm, được ăn no. Em mong mỏi được sống trong tình yêu thương của gia đình. ĐÓ chính là ước mwo thầm kín bấy lâu nay của em. Bởi vậy, mặc cho nỗi sợ bị cha đánh mắng, tuyết rơi giá rét, em vội vàng thắp hết những que diêm còn lại để được bên bà lâu hơn nữa. Rồi em được trở về với bà, đến một nơi mà "chẳng còn đói rét, buồn đau nào đe doạ". Em ra đi thanh thản trong niềm hạnh phúc ngập tràn.
Kết thúc câu chuyện là hình ảnh "ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm". Không ai biết được điều gì đã thực sự xảy ra trong đêm đông hôm đó. Một cái kết buồn trong lòng người đọc nhưng lại là niềm hạnh phúc bé nhỏ của em bé bán diêm bất hạnh.
Thông qua câu chuyện, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp nhỏ tới toàn thể nhân loại: thông điệp về tình người. Còn đó ngoài kia biết bao trẻ em lang thang cơ nhỡ đang cần chúng ta dang rộng cánh tay giúp đỡ. Các em thực sự cần được quan tâm, yêu thương và bảo vệ.
Viết đoạn văn ngắn ( tối đa 10 câu ) tóm tắt truyện ngắn " Lặng lẽ sapa " của nhà văn Nguyễn Thành Long
Mng giúp em với ạ Em đang cần gấp em cảm ơn🥲
“Lặng lẽ Sa Pa” là chuyện ngắn xoay quanh về nhân vật chính là một anh thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng thuỷ văn kiêm vật lý địa cầu. Vì vậy anh sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn quanh năm mây mù bao phủ. Trong một lần anh gặp gỡ với ông họa sĩ và cô kĩ sư, họ cùng lên thăm chỗ anh ở. Anh giới thiệu với họ về công việc và cuộc sống hàng ngày của mình. Công việc anh đòi hỏi tinh thần trách nghiệm cao nên anh tự tạo cho mình cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Anh có một căn nhà ngăn nắp, ngọn gàng, có vườn rau, vườn hoa và có sách là bạn. Anh tặng vợ bác lái xe củ tam thất, tặng cô kĩ sư bó hoa, tặng ông họa sĩ một giỏ trứng. Ông họa sĩ già ngưỡng mộ anh thanh niên nên đã phác họa một bức chân dung nhưng anh đã từ chối. Qua lời kể của anh, các vị khách còn được biết thêm về rất nhiều gương sáng hết lòng phục vụ sự nghiệp xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Sau một lúc nói chuyện họ chia tay. Song anh đã để lại những ấn tượng tốt trong lòng ông họa sĩ và cô kĩ sư, ông họa sĩ đã hứa sẽ có dịp quay trở lại thăm anh.
viết 1 đoạn văn tóm tắt về cô bé bán diêm của An-đéc-xen khoảng 7 đến 10 câu trong đoạn văn có sử dụng ít nhất 1 câu ghép hãy chỉ rõ câu ghép ấy ra.
Cô bé bán diêm là một cô bé có hoàn cảnh thật đáng thương tâm.Người đời đối xử tàn nhẫn với em biết mấy. Họ chẳng thèm để ý đến những lời chào hàng tha thiết của em thậm chí đến lúc chết, cái thi thể lạnh cóng của em cũng chỉ nhận được những ánh nhìn lạnh nhạt. Trong cái xã hội thiếu tình thương ấy, nhà văn An-đéc-xen đã tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh. Chính tình yêu ấy đã khiến nhà văn miêu tả thi thể em với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, đồng thời tưởng tượng ra cảnh huy hoàng của hai bà cháu lúc về trời. Song nhìn chung cả câu chuyện nói chung và đoạn kết của truyện nói riêng là một cảnh tượng thương tâm thực sự. Nó gợi lên ở chúng ta bao nỗi xót xa cho những kiếp người nghèo khổ.
em hãy viết khoảng ( 5 đến 7 dòng ) nêu cảm nhận về nhân vật cô bé bán diêm trong truyện cô bé bán diêm của nhà văn an-đéc - xen
mấy bạn giúp mình với 3h45 mình cần rồi ai trả lời nhanh mình tick cho bạn đấy !!!!!!!!!!!!!!!
Mọi người ơi, giúp mình với mình đang cần gấp!!!!!!
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Mỗi người đều có một mơ ước riêng cho mình. Có những ước mơ nhỏ nhoi như của cô bé bán diêm trong truyện cổ An-đéc-xen: một mái nhà trong đêm đông giá buốt. Cũng có những ước mơ lớn lao làm thay đổi cả thế giới như của tỷ phú Bill Gates. Mơ ước khiến chúng ta trở nên năng động một cách sáng tạo. Nhưng chỉ mơ thôi thì chưa đủ. Ước mơ chỉ trở thành hiện thực khi đi kèm với hành động và nỗ lực thực hiện mơ ước Tất cả chúng ta đều phải hành động nhằm biến mơ ước của mình thành hiện thực.
[] Ngày bạn thôi mơ mộng là ngày cuộc đời bạn mất hết ý nghĩa. Những người biết mơ ước là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần. Ngay cả khi giấc mơ của bạn không bao giờ trọn vẹn, bạn cũng sẽ không phải hối tiếc vì nó. Như Đôn-ki-hô-tê đã nói: Việc mơ những giấc mơ diệu kì là điều tốt nhất một người có thể làm.
Tôi vẫn tin vào những câu chuyện cổ tích nơi mà lòng kiên nhẫn, ý chí bền bỉ sẽ được đền đáp. Hãy tự tin tiến bước trên con đường mơ ước của bạn.
(Quà tặng cuộc sống Thu Quỳnh, Hạnh Nguyên dịch NXB Tổng hợp thành phố HCM, 2016, tr.56 - 57)
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
A. Tự sự và miêu tả
B. Biểu cảm và miêu tả
C. Nghị luận
D. Thuyết minh
Câu 2. Xác định luận đề của văn bản trên?
A. Bàn về việc hãy sống có ước mơ
B. Bàn về ước mớ lớn, ước mơ nhỏ
C. Bàn về những người đang sống cuộc sống của các thiện thần
D. Bàn về sự tự tin
Câu 3. Câu Như Đôn ki hô tê đã nói: Việc mơ những giấc mơ diệu kỳ là điều tốt nhất một người có thể làm là bằng chứng khách quan hay ý kiến chủ quan của người viết?
A. bằng chứng khách quan
B. ý kiến chủ quan của người viết
Câu 4. Ý kiến của tác giả thể hiện trong câu văn nào sau đây?
A. Có những ước mơ nhỏ nhoi như của cô bé bán diêm trong truyện cổ An-đéc-xen: một mái nhà trong đêm đông giá buốt.
B. Cũng có những ước mơ lớn lao làm thay đổi cả thế giới như của tỷ phú Bill Gates.
C. Tất cả chúng ta đều phải hành động nhằm biến mơ ước của mình thành hiện thực.
D. Như Đôn ki hô tê đã nói: Việc mơ những giấc mơ diệu kỳ là điều tốt nhất một người có thể làm
Trả lời các câu hỏi:
Câu 5. Em hiểu cục từ cuộc sống của các thiên thần trong câu Những người biết mơ ước là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần Có nghĩa là gì?
Câu 6. Việc tác giả dẫn ra ước mơ của cô bé bán diêm trong truyện cổ tích An-đéc-xen và ước mơ của tỷ phú Bill Gates có tác dụng gì?
Câu 7. Em hiểu gì về thông điệp của văn bản?
Câu 8. Từ Thông điệp của văn bản, em rút ra bài học gì cho bản thân?Hoặc: em có đồng tình với ý kiến của Người viết trong văn bản trên không? Vì sao?
Làm văn (Viết)Từ vấn đề đặt ra trong văn bản ở ngữ liệu đọc hiểu đọc hiểu, em hãy viết bài văn nghị luận bày bày tỏ ý kiến của em về vấn đề sau: chính ước mơ làm cuộc sống chúng ta thêm động lực.
1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
C. Nghị luận
Câu 2. Xác định luận đề của văn bản trên?
B. Bàn về ước mơ lớn, ước mơ nhỏ
Câu 3. Câu Như Đôn ki hô tê đã nói: Việc mơ những giấc mơ diệu kỳ là điều tốt nhất một người có thể làm là bằng chứng khách quan hay ý kiến chủ quan của người viết?
B. ý kiến chủ quan của người viết
Câu 4. Ý kiến của tác giả thể hiện trong câu văn nào sau đây?
C. Tất cả chúng ta đều phải hành động nhằm biến mơ ước của mình thành hiện thực.
Câu 5. Em hiểu cụm từ cuộc sống của các thiên thần trong câu "Những người biết mơ ước là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần" Có nghĩa là gì?
Cụm từ này có thể hiểu là những người biết mơ ước và hành động để thực hiện ước mơ của họ đang sống một cuộc sống tích cực, ý chí mạnh mẽ, giống như các thiên thần có tinh thần cao cả.
Câu 6. Việc tác giả dẫn ra ước mơ của cô bé bán diêm trong truyện cổ tích An-đéc-xen và ước mơ của tỷ phú Bill Gates có tác dụng gì?
Tác giả giới thiệu những ước mơ khác nhau nhằm minh họa rằng mọi người, từ nhỏ đến lớn, đều có khả năng mơ ước và làm thay đổi cuộc sống của mình. Điều này nhấn mạnh ý kiến chủ đạo của văn bản về tầm quan trọng của ước mơ.
Câu 7. Em hiểu gì về thông điệp của văn bản?
Thông điệp của văn bản là việc mơ ước không chỉ là điều tốt lành mà còn là động lực quan trọng để chúng ta hành động và thay đổi cuộc sống.
Câu 8. Từ Thông điệp của văn bản, em rút ra bài học gì cho bản thân?
Một bài học có thể là việc không chỉ mơ mộng mà còn phải hành động để biến ước mơ thành hiện thực. Tôi cũng nhận thức về sức mạnh tích cực của việc giữ cho tâm trạng mơ mộng và không bao giờ từ bỏ niềm tin vào khả năng thay Đổi cuộc sống
Truyện "Cô bé bán diêm" của Hans Christian Andersen là một câu chuyện ngắn nổi tiếng, nói về một cô bé nghèo đang bán diêm trong đêm giá lạnh. Truyện mang một thông điệp sâu sắc về tình người và lòng nhân ái. Phân tích truyện, ta có thể nhận thấy các yếu tố sau:
1. Tình người và lòng nhân ái: Truyện tập trung vào cuộc sống khó khăn của cô bé bán diêm và cách mà xã hội lạnh lùng đối xử với cô. Cô bé không chỉ bị bỏ rơi và bị bỏ quên trong cái lạnh giá của đêm đông, mà còn bị người khác coi thường và không chú ý đến. Tuy nhiên, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, cô bé gặp một hình ảnh của bà mình và được bà đưa đi với mình. Điều này cho thấy tình người và lòng nhân ái có thể tồn tại ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất
.2. Sự bất công xã hội: Truyện cho thấy sự bất công xã hội khi cô bé bán diêm không nhận được sự quan tâm và giúp đỡ từ những người đi qua. Ngược lại, họ chỉ coi cô bé như một cản trở và không đáng để dừng lại. Điều này thể hiện sự thờ ơ và vô tâm của xã hội đối với những người nghèo khó.
3. Hy vọng và tưởng tượng: Truyện cũng nhấn mạnh vai trò của hy vọng và tưởng tượng trong cuộc sống. Dù cô bé bị bỏ rơi và chịu đựng sự lạnh lẽo của đêm đông, cô vẫn có thể tưởng tượng và mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều này thể hiện sức mạnh của tâm hồn và khả năng vượt qua khó khăn.
Tóm lại, truyện "Cô bé bán diêm" của Hans Christian Andersen là một câu chuyện đầy ý nghĩa về tình người, lòng nhân ái và sự bất công xã hội. Nó nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự tử tế và hy vọng trong cuộc sống.
kể tóm tắt câu truyện ĐÊM NAY BÁC KHÔNG NGỦ
giúp nha làm ơn đang cần gấp
Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, trên đường đi kiểm tra khâu chuẩn bị của chiến dịch Biên giới, Bác Hồ đến thăm một đơn vị chủ lực rồi nghỉ chân tại nơi đóng quân của bộ đội. Đêm khuya, trời mưa lâm thâm và rất lạnh. Anh đội viên thức dậy lần đầu, thấy Bác ngồi bên bếp lửa rồi đi dém chăn cho từng người, anh năn nỉ mời Bác đi ngủ. Lần thứ ba thức dậy, anh thấy Bác vẫn thức. rời đã gần sáng, anh tâm tình với Bác và thức luôn cùng Bác.Bài thơ thể hiện tình cảm chung của bộ đội và nhân dân ta đối với Bác Hồ. Đó là niềm hạnh phúc được đón nhận tình yêu thương và sự chăm sóc ân cần của Bác Hồ. Đồng thời là lòng tin yêu, biết ơn sâu sắc và tự hào về vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại mà bình dị.
Trong chiến dịch biên giới cuối năm 1950,Bác Hồ đã trực tiếp ra mặt trận theo dõi và chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân ta.Rừng Việt Bắc vừa lạnh mà còn mưa lâm thâm nên rất khó chịu,các chiến sĩ mệt mỏi sau một ngày chiến đấu vất vả.Ai nấy đều ngủ rất ngon lạnh,đồng thời cũng có một anh đội viên đã tận mắt chứng kiến một đêm không ngủ của Người.Đang ngủ mà thấy ấm hẳn lên anh thức dậy thì thấy Bác vẫn ngồi,vẻ mặt trầm ngâm.Rồi Bác đi dém chăn cho từng người một.Anh ngồi dậy mời Bác ngủ nhưng Bác chỉ dặn anh ngủ ngon để ngày mai còn đi đánh giặc.Anh vâng lời nhắm mắt nhưng lại sợ Bác ốm.Lần thứ ba thức dậy,anh vẫn thấy Bác ngồi đinh ninh,chòm râu im phăng phắc.Anh nằng nặc mời Bác ngủ nhưng Bác không ngủ vì thương đoàn dân công đêm nay phải ngủ ngoài rừng.Cảm động trước tấm lòng vị tha của Người,anh đội viên đã thức luôn cùng Bác.Từ một chuyện tưởng như nhỏ bé,đơn giản nhưng lại khiến biết bao người cảm phục trước tấm lòng cao cả Người-vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam.
thức dậy trong một đêm mưa ở rừng, anh đội viên thấy Bác Hồ đốt lửa và hết sức tận tình chăm sóc cho giấc ngủ của bộ đội. Lần thứ 3 thức dậy, anh mời Bác ngủ nhưng Bác vẫn từ chối. Chứng kiến cảnh đó, anh vô cùng cảm phục tấm lòng cao cả của Bác.
Tóm tắt các sự việc trong truyện Thánh Gióng .
giúp mk với , đâng cần gấp lắm
Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.
Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.
Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.
Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.
Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
Các sự vc chính :
1, Sự ra đời của Gióng và niềm vaui cùng sự bất ngờ của cha mẹ cậu ;
2, Khi Gióng biết nói , đảm nhận trách nhiệm đánh giặc Ân;
3, Điều bất ngờ : Gióng lớn nhanh như thổi
4 ,Cậu vươn vai thành tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt đánh giặc.
5,Gióng đánh tan lũ giặc ngoại xâm .
6, Cậu lên núi, cởi giáp sắt , ngựa ở lại và bay về trời.
7, Nhà Vua phong danh hiệu cho Gióng và lập đền thờ.
8, Những vết tích còn lại sau lần đánh giặc .