Những câu hỏi liên quan
Cao Ngọc Ánh
Xem chi tiết
White Rose
17 tháng 5 2018 lúc 8:45

de cuong on tap a ?

Bình luận (0)
Cao Ngọc Ánh
18 tháng 5 2018 lúc 17:24

ko bạn ak chỉ là bài thu hoạch cuối năm thôi

Bình luận (0)
White Rose
21 tháng 5 2018 lúc 14:18

Vay thi lam lam gi?

Bình luận (0)
Trân Khơi My
Xem chi tiết
Hậu Vệ Thép
19 tháng 10 2018 lúc 20:23

người bạn thích hay người mk thích z ,Tự làm nhoa !

Bình luận (0)
Thùy Dương
19 tháng 10 2018 lúc 20:34

bài này chiều mai nộp mà

Bình luận (0)
Thùy Dương
19 tháng 10 2018 lúc 20:35

mà bạn là ai

Bình luận (0)
Bùi Như Quỳnh
Xem chi tiết
qwerty
8 tháng 3 2016 lúc 20:04

Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử việc hiểu và áp dụng tình tiết này còn nhiều quan điểm khác nhau. Mặt khác, các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa giải thích hoặc hướng dẫn chính thức nên thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn khi phải cân nhắc có áp dụng hay không áp dụng các tình tiết này trong vụ án cụ thể. Với bài viết này, chúng tôi cũng không hy vọng sẽ đáp ứng được tất cả những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, mà chỉ trao đổi một số điểm để bạn đọc và đặc biệt là các đồng nghiệp tham khảo.

 

Phạm tội đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và các quyền khác mà trẻ em có theo quy định của pháp luật.

 

Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em. Quy định về độ tuổi đối với trẻ em của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự về độ tuổi của trẻ em. Ví dụ: Điều 112 Bộ luật hình sự quy định: “người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 114 Bộ luật hình sự quy định: “người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 115 Bộ luật hình sự quy định“người nào đã thành niên giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.v.v…

 

Phạm tội đối với trẻ em được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn xuất phát từ một thực tế là trẻ em là người không có khả năng tự vệ, và đây là lý do chính mà nhà làm luật quy định “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó khi xác định mức độ tăng nặng của tình tiết này sẽ phụ thuộc vào độ tuổi của nạn nhân. Nếu trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức tăng nặng càng nhiều.

 

Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quyết định hình phạt tại điểm h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự  mà trong nhiều trường hợp nó là yếu tố định tội như: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.v.v… hoặc là yếu tố khung hình phạt như: giết trẻ em, đe doạ giết trẻ em, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em, lây truyền HIV cho người chưa thành niên là trẻ em, bắt cóc trẻ em nhằm chiếm đoạt tài sản.v.v…. Vì vậy, khi Bộ luật hình sự quy định tình tiết này là yếu tố định tội hoặc khung hình phạt, thì không được coi là tình tiết tăng nặng để áp dụng điểm h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt nữa.

 

Trẻ em là người dưới 16 tuổi, nên việc xác định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nếu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này, việc tính tuổi của người bị hại để xác định họ có phải là trẻ em hay không sẽ như thế nào ? Vấn đề này, hiện nay có hai ý kiến khác nhau:

 

Ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết ngày, tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của năm đó. Ví dụ: Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xác định được cháu Trịnh Hồng D sinh vào tháng 6 năm 1990, thì lấy ngày sinh của cháu D là ngày 30 tháng 6 năm 1990; nếu chỉ biết năm sinh của cháu D là năm 1990, không biết sinh ngày tháng nào thì lấy ngày 31 tháng 12 năm 1990 là ngày tháng năm sinh của cháu D. Cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội, vì người bị hại càng ít tuổi bao nhiêu thì người phạm tội càng bị trách nhiệm nặng bấy nhiêu. Theo quan điểm này xuất phát từ nguyên lý, trẻ em cần dược bảo vệ đặc biệt, nên cơ quan áp dụng pháp luật cũng phải quan tâm đặc biệt hơn.

 

Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết ngày, tháng sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm đó. Ví dụ: chỉ xác định được cháu Hồ Thị M sinh vào tháng 8 năm 1990 thì lấy ngày sinh của cháu M là ngày 01 tháng 8 năm 1990; nếu chỉ biết năm sinh của cháu M là năm 1990, không biết sinh ngày tháng nào thì lấy ngày 01 tháng 01 năm 1990 là ngày tháng năm sinh của cháu M. Cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Theo quan điểm này thì việc tính tuổi người bị hại theo hướng có lợi cho người phạm tội nhưng cũng không có nghĩa là gây bất lợi cho người bị hại là trẻ em, vì dù là trẻ em hay người đã đủ 16 tuổi hoặc người đã thành niên khi bị xâm hại, sự khác nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội lại chính từ người phạm tội chứ không phải ở phía người bị hại. Việc bồi thường danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ, tài sản cho người bị hại là trẻ em vẫn được bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật; không vì người bị hại là trẻ em thì được nhiều hơn người bị hại là người đã thành niên. Do đó việc xác định tuổi của người bị hại có ý nghĩa đối với người phạm tội nhiều hơn là đối với người bị hại. Chúng tôi đồng ý với cách xác định thứ hai. Tuy nhiên, để tránh tình trạng mỗi nơi xác định một khác, thì các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.*

 

Khi xác định tình tiết phạm tội đối với trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng có cần chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội là phải biết người bị hại là trẻ em thì mới áp dụng tình tiết này không ? Đây cũng là vấn đề lâu nay về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cũng còn ý kiến khác nhau:

 

Ý kiến thứ nhất cho rằng, về nguyên tắc, đối với tình tiết tăng nặng nói chung và tình tiết phạm tội đối với trẻ em nói riêng, người phạm tội phải thấy trước hoặc có thể thấy trước người mà mình xâm phạm là trẻ em, thì mới được coi là tình tiết tăng nặng đối với họ. Nếu có lý do chính đáng mà người phạm tội không thấy được trước hoặc không thể thấy được trước, thì dù người bị hại đúng là trẻ em thật cũng không bị coi là phạm tội đối với trẻ em. Ví dụ: Đặng Xuân T điều khiển xe tải, do phóng nhanh vượt ẩu đã đâm thẳng đầu xe vào một nhà dân bên đường. Sau khi tai nạn xảy ra, T cũng bị thương nặng phải đưa đi bệnh viện cấp cứu; tại bệnh viện, T được người nhà cho biết vụ tai nạn do T gây ra làm chết cháu Nguyễn Thị H 10 tuổi đang nằm ngủ trên giường. Trong trường hợp này, khi phạm tội T không thể biết trong nhà có người hay không có người, nếu có người thì cũng không thể biết đó là người lớn hay trẻ em. Do đó Đặng Xuân T không bị áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em”.

 

Ý kiến thứ hai cho rằng, việc có cần xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với tình tiết tăng nặng hay không phải căn cứ cứ vào nội dung của tình tiết tăng nặng cụ thể được quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, chứ không thể cứ là tình tiết tăng nặng thì người phạm tội phải biết trước hoặc có thể biết trước thì mới bị áp dụng. Bởi lẽ, trong các tình tiết tăng nặng quy định tại điều 48 Bộ luật hình sự không phải tình tiết nào cũng đòi hỏi người phạm tội cũng phải thấy được trước hoặc có thể thấy được trước thì mới buộc người phạm tội phải chịu, mà có những tình tiết bản thân nó đã chứa đựng tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự và mặc nhiên người phạm tội phải thấy trước. Ví dụ: tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, nó tồn taị khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con người, chỉ cần có đủ các điều kiện quy định của pháp luật là nó xuất hiện, dù người phạm tội có muốn hay không muốn. Ngược lại, có tình tiết nếu người phạm tội không nhận thức được trước khi thực hiện thì không thể buộc họ phải chịu. Ví dụ: tình tiết lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội  để phạm tội, là tình tiết người phạm tội phải nhận thức được, nếu họ không nhận thức được thì không thể buộc họ phải chịu. Chúng tôi đồng tình với ý kiến này và phân tích thêm một số khía cạch về pháp lý cũng như thực tiễn như sau:

 

Khi nghiên cứu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, chúng ta thấy có tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, có tình tiết thuộc về hành vi khách quan, có tình tiết thuộc về ý thức chủ quan và có tình tiết chỉ là sự vật hoặc hiện tượng khách quan. Cùng một hiện tượng nhưng nhà làm luật quy định khác nhau thì việc xác định cũng khác nhau. Ví dụ: người bị hại là phụ nữ có thai, nhưng nhà làm luật quy định “giết phụ nữ mà biết là có thai” (điểm b khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) thì buộc người phạm tội phải biết người mà mình giết là phụ nữ đang có thai. Trong trường hợp người phạm tội nhầm tưởng là người mà mình giết là có thai nhưng thực tế không có thái thì người phạm tội ẫn bị áp dụng tình tiết “giết phụ nữ mà biết là có thai” . Ví dụ: Ví dụ: Vũ Xuân K là tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị Bùi Thị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai bên cãi nhau. K đe doạ: “Về tới bến biết tay tao!” Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng chị M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: “Tao đánh cho mày trụy thai để mày hết thói chua ngoa”. Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: “Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội”. Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai. Ngược lại có trường hợp người bị giết là phụ nữ có thai thật nhưng trong hoàn cảnh cụ thể người phạm tội không thể biết được người phụ nữ mà mình xâm phạm là đang có thai thì người phạm tội cũng không bị coi là “giết phụ nữ mà biết là có thai”. Ví dụ: Đỗ Quốc C là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị Phạm Thị H. A chê phở không ngon, chị H cũng chẳng vừa bèn nói lại: “ít tiền mà cũng đòi ăn ngon, đồ nhà quê!” A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp. Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới biết chị H đang có thai hai tháng.

 

Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết thuộc về mặt chủ quan của tội phạm mà là tình tiết thuộc về mặt khách quan. Một người bao nhiêu tuổi là căn cứ vào ngày tháng năm sinh của người đó chứ không phụ thuộc vào nhận thức của người khác. Nếu phụ thuộc vào nhận thức của người khác thì thực tế có thể có người nhiều tuổi nhưng người khác lại tưởng là còn ít tuổi và ngược lại. Thông thường, khi bị quy kết là phạm tội đối với trẻ em, người phạm tội thường nại rằng họ không biết đó là trẻ em, nhất là đối với người bị hại ở độ tuổi giáp ranh trên dưới 16 tuổi. Ví dụ: Đỗ Xuân Đ thoả thuận với Vũ Thị C là chủ nhà nghỉ “Sao Khuya” tìm cho Đ một gái bán dâm. Vũ Thị C đồng ý và gọi Trần Thị H là gái bán dâm đến nhà nghỉ theo yêu cầu của Đ. Trong lúc Đ đang thực hiện hành vi giao cấu với H thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Kiểm tra giấy tờ của Trần Thị H thì biết H chưa đủ 16 tuổi; Lực lượng Công an đã lập biên bản về việc Đỗ Xuân Đ giao cấu với trẻ em. Khi yêu cầu Đ ký vào biên bản phạm tội quả tang thì Đ không ký và nại ra rằng, không biết người mà  mình giao cấu là trẻ em.

 

Vì là tình tiết thuộc mặt khách quan nên nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, do đó không cần người phạm tội phải nhận thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi.

 

 Tuy nhiên, trong một số trường hợp phạm tội do vô ý, việc xác định tình tiết phạm tội đối với trẻ em không hoàn toàn giống như trường hợp phạm tội do cố ý, mà trong một số trường hợp mặc dù người bị hại là trẻ em nhưng việc áp dụng tình tiết phạm tội đối với trẻ em cần phân biệt:

 

- Nếu phạm tội do vô ý nhưng trước khi thực hiện hành vi người phạm tội đã biết rõ đối tượng tác động là trẻ em, thì phải coi là phạm tội đối với trẻ em. Ví dụ: Hoàng Văn S đi săn trong rừng, thấy một bé gái (sau này xác định có tên là Nguyễn Thị M) đang lấy măng; cùng lúc đó có một con chồn chạy qua chỗ cháu M, Hoàng Văn S dương súng bắn chồn nhưng đạn lại trúng cháu M làm cháu M bị thương nặng có tỷ lệ thương tật là 65%. Hành vi phạm tội của Hoàng Văn S bị truy tố và xét xử về tội vô ý gây thương tích cho người khác. Trong trường hợp phạm tội cụ thể này, trước khi dương súng bóp cò, S biết hướng bắn có người mà người này là trẻ em nhưng do quá tin vào khả năng bắn súng của mình (vô ý vì quá tự tin) nên đã gây thương tích nặng cho cháu M. Hành vi phạm tội của S phải coi là phạm tội đối với trẻ em.

 

- Nếu bị cáo phạm tội do vô ý và trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo không biết hoặc không đủ điều kiện để biết trước người mà mình xâm phạm là trẻ em, thì không coi là phạm tội đối với trẻ em như trường hợp của Đặng Xuân T đã nêu ở trên thì không coi là phạm tội đối với trẻ em.

 

Thực tiễn xét xử có trường hợp người phạm tội cũng là trẻ em thì có coi là phạm tội đối với trẻ em không.Ví dụ: Nguyễn Văn D 15 tuổi 4 tháng 10 ngày dùng dao nhọn Thái Lan đâm vào bụng Trần Quang T 15 tuổi 8 tháng 20 ngày làm cho T bị thương có tỷ lệ thương tật là 45%. Nếu coi hành vi phạm tội của Nguyễn Văn D là phạm tội đối với trẻ em thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng và D mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu không coi hành vi phạm tội của Nguyễn Văn D là phạm tội đối với trẻ em thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng thì D không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

 

Đây là vấn đề chưa được giải thích hoặc hướng dẫn cũng như chưa được trao đổi, bình luận hoặc đề cậptrên các báo chí hoặc trong các cuộc hội thảo khoa học. Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề vừa mang tính chất pháp lý vừa có tính chất xã hội sâu sắc, cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc trên cơ sở khoa học pháp lý, tâm sinh lý của trẻ em và quan điểm xử lý đối với trẻ em phạm pháp. v.v…

 

Việc nghiên cứu một cách tổng thể và đưa ra những chủ trương, những quy định có tính hướng dẫn áp dụng thống nhất là một yêu cầu cấp bách, nhưng cũng không thể nóng vội mà phải có thời gian, nhất là đây lại là vấn đề có liên quan đến chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội. Tuy nhiên, tội phạm thì vẫn xảy ra, trong đó có hành vi phạm tội của trẻ em đối với trẻ em, chúng ta không thể tạm đình chỉ vụ án để chờ hướng dẫn. Do đó, theo chúng tôi trong khi Bộ luật hình sự chưa sửa đổi, bổ sung và chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền thì việc xác định tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” mà người phạm tội cũng là trẻ em hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cần phải tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự về tình tiết “phạm tội đối với trẻ em”, đồng thời đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội để có một đường lối xử lý cho phù hợp.

 

Như trên đã phân tích, tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự mà trong một số trường hợp nó còn là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt. Theo quy định tai khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự thì những tình tiết dã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Nghiên cứu tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết định tội thì thấy: Trong các tội xâm phạm đến trẻ em, có tội nhà làm luật không quy định người phạm tội phải làngười đã thành niên như: tội hiếp dâm trẻ em; tội cưỡng dâm trẻ em; tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Nhưng cũng có một số tội nhà làm luật quy định người phạm tội phải là người đã thành niên như: tội giao cấu với trẻ em; tội dâm ô với trẻ em. Do đó, cũng khó có thể xác định tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không áp dụng đối với người phạm tội là trẻ em. Hơn nữa, tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” lại là tình tiết  thuộc mặt khách quan, không liên quan gì đến chủ thể của tội phạm mà chỉ liên quan đến người bị xâm phạm (người bị hại). Không có quy định nào của Bộ luật hình sự loại trừ trường hợp trẻ em hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà phạm tội đối với trẻ em thì không coi là phạm tội đối với trẻ em (trừ trường hợp phạm tội đối với trẻ em là tình tiết định tội quy định tại một số điều luật). Vì vậy, trường hợp phạm tội của Nguyễn Văn D nêu ở trên thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì Nguyễn Văn D có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi nói có thể là vì khi xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các quy định tại Chương X Bộ luật hình sự (từ Điều 68 đến Điều 77) để miễn trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn D.

 

Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự, có những nguyên tắc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội như: “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”. Với các quy định trên, thì đối với trẻ em phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho họ. Trường hợp cần thiết buộc phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em phạm tội rất nghiêm trọng thì cũng chỉ nên áp dụng biện pháp tư pháp như: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng, mà không nên áp dụng hình phạt đối với trẻ em phạm tội. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thật quan tâm đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội, trong đó có trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; chưa mạnh dạn áp dụng các biện pháp tư pháp mà chủ yếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo; hình phạt tù giam vẫn còn chiếm tỷ lệ cao; có trường hợp khi điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng còn “quên” không áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nên bản án hoặc quyết định đã bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm huỷ để giải quyết lại.

Bình luận (1)
Bùi Như Quỳnh
8 tháng 3 2016 lúc 20:27

Sao dài quá vậy bạn?????

Bình luận (0)
Trần Mạnh Cường
1 tháng 1 2018 lúc 6:45

Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử việc hiểu và áp dụng tình tiết này còn nhiều quan điểm khác nhau. Mặt khác, các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa giải thích hoặc hướng dẫn chính thức nên thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn khi phải cân nhắc có áp dụng hay không áp dụng các tình tiết này trong vụ án cụ thể. Với bài viết này, chúng tôi cũng không hy vọng sẽ đáp ứng được tất cả những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, mà chỉ trao đổi một số điểm để bạn đọc và đặc biệt là các đồng nghiệp tham khảo.

Phạm tội đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và các quyền khác mà trẻ em có theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em. Quy định về độ tuổi đối với trẻ em của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự về độ tuổi của trẻ em. Ví dụ: Điều 112 Bộ luật hình sự quy định: “người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 114 Bộ luật hình sự quy định: “người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Điều 115 Bộ luật hình sự quy định“người nào đã thành niên giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.v.v…

Phạm tội đối với trẻ em được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn xuất phát từ một thực tế là trẻ em là người không có khả năng tự vệ, và đây là lý do chính mà nhà làm luật quy định “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó khi xác định mức độ tăng nặng của tình tiết này sẽ phụ thuộc vào độ tuổi của nạn nhân. Nếu trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức tăng nặng càng nhiều.

Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quyết định hình phạt tại điểm h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự mà trong nhiều trường hợp nó là yếu tố định tội như: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.v.v… hoặc là yếu tố khung hình phạt như: giết trẻ em, đe doạ giết trẻ em, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em, lây truyền HIV cho người chưa thành niên là trẻ em, bắt cóc trẻ em nhằm chiếm đoạt tài sản.v.v…. Vì vậy, khi Bộ luật hình sự quy định tình tiết này là yếu tố định tội hoặc khung hình phạt, thì không được coi là tình tiết tăng nặng để áp dụng điểm h khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt nữa.

Trẻ em là người dưới 16 tuổi, nên việc xác định tuổi của người được xác định là trẻ em là một yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em, nếu không có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này, việc tính tuổi của người bị hại để xác định họ có phải là trẻ em hay không sẽ như thế nào ? Vấn đề này, hiện nay có hai ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu không biết ngày, tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của năm đó. Ví dụ: Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xác định được cháu Trịnh Hồng D sinh vào tháng 6 năm 1990, thì lấy ngày sinh của cháu D là ngày 30 tháng 6 năm 1990; nếu chỉ biết năm sinh của cháu D là năm 1990, không biết sinh ngày tháng nào thì lấy ngày 31 tháng 12 năm 1990 là ngày tháng năm sinh của cháu D. Cách tính này là không có lợi cho ngời phạm tội, vì người bị hại càng ít tuổi bao nhiêu thì người phạm tội càng bị trách nhiệm nặng bấy nhiêu. Theo quan điểm này xuất phát từ nguyên lý, trẻ em cần dược bảo vệ đặc biệt, nên cơ quan áp dụng pháp luật cũng phải quan tâm đặc biệt hơn.

Còn ý kiến thứ hai thì cho rằng, nếu không biết ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu không biết ngày, tháng sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm đó. Ví dụ: chỉ xác định được cháu Hồ Thị M sinh vào tháng 8 năm 1990 thì lấy ngày sinh của cháu M là ngày 01 tháng 8 năm 1990; nếu chỉ biết năm sinh của cháu M là năm 1990, không biết sinh ngày tháng nào thì lấy ngày 01 tháng 01 năm 1990 là ngày tháng năm sinh của cháu M. Cách tính này theo hướng có lợi cho người phạm tội. Theo quan điểm này thì việc tính tuổi người bị hại theo hướng có lợi cho người phạm tội nhưng cũng không có nghĩa là gây bất lợi cho người bị hại là trẻ em, vì dù là trẻ em hay người đã đủ 16 tuổi hoặc người đã thành niên khi bị xâm hại, sự khác nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội lại chính từ người phạm tội chứ không phải ở phía người bị hại. Việc bồi thường danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ, tài sản cho người bị hại là trẻ em vẫn được bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật; không vì người bị hại là trẻ em thì được nhiều hơn người bị hại là người đã thành niên. Do đó việc xác định tuổi của người bị hại có ý nghĩa đối với người phạm tội nhiều hơn là đối với người bị hại. Chúng tôi đồng ý với cách xác định thứ hai. Tuy nhiên, để tránh tình trạng mỗi nơi xác định một khác, thì các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.*

Khi xác định tình tiết phạm tội đối với trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng có cần chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội là phải biết người bị hại là trẻ em thì mới áp dụng tình tiết này không ? Đây cũng là vấn đề lâu nay về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cũng còn ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, về nguyên tắc, đối với tình tiết tăng nặng nói chung và tình tiết phạm tội đối với trẻ em nói riêng, người phạm tội phải thấy trước hoặc có thể thấy trước người mà mình xâm phạm là trẻ em, thì mới được coi là tình tiết tăng nặng đối với họ. Nếu có lý do chính đáng mà người phạm tội không thấy được trước hoặc không thể thấy được trước, thì dù người bị hại đúng là trẻ em thật cũng không bị coi là phạm tội đối với trẻ em. Ví dụ: Đặng Xuân T điều khiển xe tải, do phóng nhanh vượt ẩu đã đâm thẳng đầu xe vào một nhà dân bên đường. Sau khi tai nạn xảy ra, T cũng bị thương nặng phải đưa đi bệnh viện cấp cứu; tại bệnh viện, T được người nhà cho biết vụ tai nạn do T gây ra làm chết cháu Nguyễn Thị H 10 tuổi đang nằm ngủ trên giường. Trong trường hợp này, khi phạm tội T không thể biết trong nhà có người hay không có người, nếu có người thì cũng không thể biết đó là người lớn hay trẻ em. Do đó Đặng Xuân T không bị áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em”.

Ý kiến thứ hai cho rằng, việc có cần xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với tình tiết tăng nặng hay không phải căn cứ cứ vào nội dung của tình tiết tăng nặng cụ thể được quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, chứ không thể cứ là tình tiết tăng nặng thì người phạm tội phải biết trước hoặc có thể biết trước thì mới bị áp dụng. Bởi lẽ, trong các tình tiết tăng nặng quy định tại điều 48 Bộ luật hình sự không phải tình tiết nào cũng đòi hỏi người phạm tội cũng phải thấy được trước hoặc có thể thấy được trước thì mới buộc người phạm tội phải chịu, mà có những tình tiết bản thân nó đã chứa đựng tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự và mặc nhiên người phạm tội phải thấy trước. Ví dụ: tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, nó tồn taị khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con người, chỉ cần có đủ các điều kiện quy định của pháp luật là nó xuất hiện, dù người phạm tội có muốn hay không muốn. Ngược lại, có tình tiết nếu người phạm tội không nhận thức được trước khi thực hiện thì không thể buộc họ phải chịu. Ví dụ: tình tiết lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội, là tình tiết người phạm tội phải nhận thức được, nếu họ không nhận thức được thì không thể buộc họ phải chịu. Chúng tôi đồng tình với ý kiến này và phân tích thêm một số khía cạch về pháp lý cũng như thực tiễn như sau:

Khi nghiên cứu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, chúng ta thấy có tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, có tình tiết thuộc về hành vi khách quan, có tình tiết thuộc về ý thức chủ quan và có tình tiết chỉ là sự vật hoặc hiện tượng khách quan. Cùng một hiện tượng nhưng nhà làm luật quy định khác nhau thì việc xác định cũng khác nhau. Ví dụ: người bị hại là phụ nữ có thai, nhưng nhà làm luật quy định “giết phụ nữ mà biết là có thai” (điểm b khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự) thì buộc người phạm tội phải biết người mà mình giết là phụ nữ đang có thai. Trong trường hợp người phạm tội nhầm tưởng là người mà mình giết là có thai nhưng thực tế không có thái thì người phạm tội ẫn bị áp dụng tình tiết “giết phụ nữ mà biết là có thai” . Ví dụ: Ví dụ: Vũ Xuân K là tên lưu manh cùng đi một chuyến ô tô với chị Bùi Thị M. Do tranh giành chỗ ngồi nên hai bên cãi nhau. K đe doạ: “Về tới bến biết tay tao!” Khi xe đến bến, K thấy chị M đi khệnh khạng, bụng lại hơi to, K tưởng chị M có thai, vừa đánh chị M, K vừa nói: “Tao đánh cho mày trụy thai để mày hết thói chua ngoa”. Mọi người thấy K đánh chị M bèn can ngăn và nói: “Người ta bụng mang dạ chửa đừng đánh nữa phải tội”. Nhưng K vẫn không buông tha. Bị đá vỡ lá lách nên chị M bị chết. Sau khi chị M chết mới biết là chị không có thai mà chị giấu thuốc lá 555 trong người giả vờ là người có thai để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Biên bản khám nghiệm tử thi cũng kết luận là chị M không có thai. Ngược lại có trường hợp người bị giết là phụ nữ có thai thật nhưng trong hoàn cảnh cụ thể người phạm tội không thể biết được người phụ nữ mà mình xâm phạm là đang có thai thì người phạm tội cũng không bị coi là “giết phụ nữ mà biết là có thai”. Ví dụ: Đỗ Quốc C là khách qua đường vào ăn phở trong tiệm phở của chị Phạm Thị H. A chê phở không ngon, chị H cũng chẳng vừa bèn nói lại: “ít tiền mà cũng đòi ăn ngon, đồ nhà quê!” A bực tức lao vào đấm đá chị H liên tiếp. Do bị đá đúng chỗ hiểm chị H đã chết sau đó vài giờ. Khi khám nghiệm tử thi mới biết chị H đang có thai hai tháng.

Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết thuộc về mặt chủ quan của tội phạm mà là tình tiết thuộc về mặt khách quan. Một người bao nhiêu tuổi là căn cứ vào ngày tháng năm sinh của người đó chứ không phụ thuộc vào nhận thức của người khác. Nếu phụ thuộc vào nhận thức của người khác thì thực tế có thể có người nhiều tuổi nhưng người khác lại tưởng là còn ít tuổi và ngược lại. Thông thường, khi bị quy kết là phạm tội đối với trẻ em, người phạm tội thường nại rằng họ không biết đó là trẻ em, nhất là đối với người bị hại ở độ tuổi giáp ranh trên dưới 16 tuổi. Ví dụ: Đỗ Xuân Đ thoả thuận với Vũ Thị C là chủ nhà nghỉ “Sao Khuya” tìm cho Đ một gái bán dâm. Vũ Thị C đồng ý và gọi Trần Thị H là gái bán dâm đến nhà nghỉ theo yêu cầu của Đ. Trong lúc Đ đang thực hiện hành vi giao cấu với H thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Kiểm tra giấy tờ của Trần Thị H thì biết H chưa đủ 16 tuổi; Lực lượng Công an đã lập biên bản về việc Đỗ Xuân Đ giao cấu với trẻ em. Khi yêu cầu Đ ký vào biên bản phạm tội quả tang thì Đ không ký và nại ra rằng, không biết người mà mình giao cấu là trẻ em.

Vì là tình tiết thuộc mặt khách quan nên nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, do đó không cần người phạm tội phải nhận thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết tăng nặng, mà chỉ cần xác định người mà người phạm tội xâm phạm là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em rồi.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp phạm tội do vô ý, việc xác định tình tiết phạm tội đối với trẻ em không hoàn toàn giống như trường hợp phạm tội do cố ý, mà trong một số trường hợp mặc dù người bị hại là trẻ em nhưng việc áp dụng tình tiết phạm tội đối với trẻ em cần phân biệt:

- Nếu phạm tội do vô ý nhưng trước khi thực hiện hành vi người phạm tội đã biết rõ đối tượng tác động là trẻ em, thì phải coi là phạm tội đối với trẻ em. Ví dụ: Hoàng Văn S đi săn trong rừng, thấy một bé gái (sau này xác định có tên là Nguyễn Thị M) đang lấy măng; cùng lúc đó có một con chồn chạy qua chỗ cháu M, Hoàng Văn S dương súng bắn chồn nhưng đạn lại trúng cháu M làm cháu M bị thương nặng có tỷ lệ thương tật là 65%. Hành vi phạm tội của Hoàng Văn S bị truy tố và xét xử về tội vô ý gây thương tích cho người khác. Trong trường hợp phạm tội cụ thể này, trước khi dương súng bóp cò, S biết hướng bắn có người mà người này là trẻ em nhưng do quá tin vào khả năng bắn súng của mình (vô ý vì quá tự tin) nên đã gây thương tích nặng cho cháu M. Hành vi phạm tội của S phải coi là phạm tội đối với trẻ em.

- Nếu bị cáo phạm tội do vô ý và trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo không biết hoặc không đủ điều kiện để biết trước người mà mình xâm phạm là trẻ em, thì không coi là phạm tội đối với trẻ em như trường hợp của Đặng Xuân T đã nêu ở trên thì không coi là phạm tội đối với trẻ em.

Thực tiễn xét xử có trường hợp người phạm tội cũng là trẻ em thì có coi là phạm tội đối với trẻ em không.Ví dụ: Nguyễn Văn D 15 tuổi 4 tháng 10 ngày dùng dao nhọn Thái Lan đâm vào bụng Trần Quang T 15 tuổi 8 tháng 20 ngày làm cho T bị thương có tỷ lệ thương tật là 45%. Nếu coi hành vi phạm tội của Nguyễn Văn D là phạm tội đối với trẻ em thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng và D mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu không coi hành vi phạm tội của Nguyễn Văn D là phạm tội đối với trẻ em thì chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng thì D không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Đây là vấn đề chưa được giải thích hoặc hướng dẫn cũng như chưa được trao đổi, bình luận hoặc đề cậptrên các báo chí hoặc trong các cuộc hội thảo khoa học. Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề vừa mang tính chất pháp lý vừa có tính chất xã hội sâu sắc, cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc trên cơ sở khoa học pháp lý, tâm sinh lý của trẻ em và quan điểm xử lý đối với trẻ em phạm pháp. v.v…

Việc nghiên cứu một cách tổng thể và đưa ra những chủ trương, những quy định có tính hướng dẫn áp dụng thống nhất là một yêu cầu cấp bách, nhưng cũng không thể nóng vội mà phải có thời gian, nhất là đây lại là vấn đề có liên quan đến chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội. Tuy nhiên, tội phạm thì vẫn xảy ra, trong đó có hành vi phạm tội của trẻ em đối với trẻ em, chúng ta không thể tạm đình chỉ vụ án để chờ hướng dẫn. Do đó, theo chúng tôi trong khi Bộ luật hình sự chưa sửa đổi, bổ sung và chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền thì việc xác định tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” mà người phạm tội cũng là trẻ em hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cần phải tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự về tình tiết “phạm tội đối với trẻ em”, đồng thời đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội để có một đường lối xử lý cho phù hợp.

Như trên đã phân tích, tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự mà trong một số trường hợp nó còn là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt. Theo quy định tai khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự thì những tình tiết dã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Nghiên cứu tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết định tội thì thấy: Trong các tội xâm phạm đến trẻ em, có tội nhà làm luật không quy định người phạm tội phải làngười đã thành niên như: tội hiếp dâm trẻ em; tội cưỡng dâm trẻ em; tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Nhưng cũng có một số tội nhà làm luật quy định người phạm tội phải là người đã thành niên như: tội giao cấu với trẻ em; tội dâm ô với trẻ em. Do đó, cũng khó có thể xác định tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không áp dụng đối với người phạm tội là trẻ em. Hơn nữa, tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” lại là tình tiết thuộc mặt khách quan, không liên quan gì đến chủ thể của tội phạm mà chỉ liên quan đến người bị xâm phạm (người bị hại). Không có quy định nào của Bộ luật hình sự loại trừ trường hợp trẻ em hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà phạm tội đối với trẻ em thì không coi là phạm tội đối với trẻ em (trừ trường hợp phạm tội đối với trẻ em là tình tiết định tội quy định tại một số điều luật). Vì vậy, trường hợp phạm tội của Nguyễn Văn D nêu ở trên thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì Nguyễn Văn D có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi nói có thể là vì khi xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các quy định tại Chương X Bộ luật hình sự (từ Điều 68 đến Điều 77) để miễn trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn D.

Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự, có những nguyên tắc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội như: “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”. Với các quy định trên, thì đối với trẻ em phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho họ. Trường hợp cần thiết buộc phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em phạm tội rất nghiêm trọng thì cũng chỉ nên áp dụng biện pháp tư pháp như: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng, mà không nên áp dụng hình phạt đối với trẻ em phạm tội. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thật quan tâm đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội, trong đó có trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; chưa mạnh dạn áp dụng các biện pháp tư pháp mà chủ yếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo; hình phạt tù giam vẫn còn chiếm tỷ lệ cao; có trường hợp khi điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng còn “quên” không áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nên bản án hoặc quyết định đã bị Toà án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm huỷ để giải quyết lại.

Bình luận (0)
Phạm Ngọc Vy
Xem chi tiết
Đoàn Đức Anh Vũ
7 tháng 6 2023 lúc 14:05

I was born and raised in Hanoi. Hanoi has many unique landscapes and traditional beauty. Speaking of Hanoi, it is impossible not to mention the scenic spots such as One Pillar Pagoda, Uncle Ho’s Mausoleum, Turtle Tower – Hoan Kiem Lake, West Lake, … Everyone can come here and enjoy the beauty of the places. Hanoians are friendly and welcoming. They are always ready to help others. A girl who is in Hanoi is usually gentle and dignified, and knows how to treat humanity. The Hanoi man is hardworking and honest. Hanoians speak softly, with an upright personality, whoever met once will remember their old age. Hanoi’s specialty is probably the traffic jam. More and more people have moved here from all over the country, making the population here soaring. It is very difficult to travel during rush hour. However, many foreign tourists see traffic congestion in Hanoi as an experience and enjoyment. I’ve always loved my hometown of Hanoi. I hope in the future I can contribute to building the homeland, helping Hanoi to become more and more prosperous.

Bình luận (0)
Nguyên Duy Thai
Xem chi tiết
Vũ Thị Thúy Nga
21 tháng 11 2016 lúc 18:35

Bạn không đọc nội quy à ??????

Bình luận (0)
Thủy Thủ Mặt Trăng Pha L...
26 tháng 2 2018 lúc 11:57

diễn đàn oline math bao gồm Toán, Tiếng Anh và Tiếng Việt chứ k chỉ cs Toán thôi đâu

Bình luận (0)
heliooo
Xem chi tiết
Dang Khoa ~xh
3 tháng 3 2021 lúc 20:13

Cho hỏi là dùng thì gì vậy ?

Bình luận (2)
heliooo
3 tháng 3 2021 lúc 20:14

Help me khocroi

Bình luận (0)
Phạm Trần Hoàng Anh
3 tháng 3 2021 lúc 20:19

P1: Two boys walked on the walkside and they saw something on that pavement. Not any things, just monet.

P2: One of the boys picked up the money and they suggested to buy something.

P3: They weren't know what to buy so they bought ice-cream

(Chúc bạn học tốt)

Bình luận (1)
Hà Phương
Xem chi tiết
Selina Moon
15 tháng 2 2016 lúc 22:51

1.MB:Lời dẫn dắt

Nêu ý kiến

2.TB

Luận điểm 1:Ca dao gợi vẻ đẹp thiên nhiên

Luận điểm 2:Ca dao gợi vẻ đẹp quê hương

Luận điểm 3:Ca dao gợi vẻ đẹp đất nước

 

Dẫn chứng

-Đất nước VN có vẻ đẹp bình dị với những nét thanh mảnh uyển chuyển:

Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

-Vẻ đẹp sơn thủy hữu tình:

Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc nhu tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô.....

3.KB:khẳng định lời nhận xét đúng đắn về ca dao

Bình luận (0)
song ngu
17 tháng 2 2016 lúc 12:37

đọc ca dao tục ngữ rồi biết liền

Bình luận (0)
Hà Phương
Xem chi tiết
Hoàng Tony
29 tháng 2 2016 lúc 12:09

nh yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Qua ca dao chúng ta thấy đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có núi có sông, có sơn có thủy , sơn thủy hài hòa, núi sông uốn lượn mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó tương thông với con người. Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và tươi tắn, hữu tình, còn là tượng trưng của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

Rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động ấy qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt.

Mỗi dân tộc tồn tại đều có diện mạo riêng của mình. Diện mạo ấy thường bộc lộ rõ rệt nhất trong văn hóa, tức là trong cách sinh hoạt, cách ứng xử của con người trong quan hệ với chính mình, với tự nhiên và với xã hội. “Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình”(Hà Văn Tấn) (1). Trong diện mạo ấy có những nét độc đáo, chỉ riêng dân tộc có, nhưng cũng có những nét giống hoặc gần gũi với các dân tộc khác. Nghiên cứu diện mạo hay bản sắc văn hóa dân tộc trước hết không phải đi tìm cho được nét khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác, vì điều này đòi hỏi sự hiểu biết rất lớn, mà chính là nhận diện cho được chân dung văn hóa của dân tộc mình, xác định cho được những nét nổi bật đã tạo nên diện mạo văn hóa của dân tộc.

Bản sắc văn hóa của dân tộc được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó có thị hiếu thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp. Sáng tác dân gian là một căn cứ đáng tin cậy, dựa vào đó có thể nhận ra phần nào đặc điểm ý thức thẩm mỹ của người Việt. Tìm hiểu cái đẹp trong ca dao là một cách tiếp cận, một con đường nhằm đến mục tiêu nhận thức đầy đủ hơn tính cách của người Việt và xa hơn là diện mạo của văn hóa dân tộc.

Trong ca dao truyền thống, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu có chữ “Đẹp”:

 

Mặn nồng một vẻ thiên nhiên

Đất ta cảnh đẹp càng nhìn càng say. (2)

*        *

*

Gia Lâm có đất Cổ Bi

Muôn đời cảnh đẹp còn ghi rành rành.

*        *

*

Tương truyền đây đất đế kinh

Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.

*        *

*

Chẳng vui cũng thể hội Thầy

Chẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.

*        *

*

Giao Tự lắm bãi nhiều doi

Lắm con gái đẹp nhiều nơi phải lòng.

*        *

*

Nhất đẹp con gái Bù Nâu

Cứng cỏi Đanh Xá, cơ cầu Quyển Sơn.

*        *

*

Gái Dự Quần đẹp như hoa lí

Trai thanh tân có ý mà theo.

 

Nếu coi chữ “Đẹp” đồng nghĩa với chữ “Xinh” thì số lượng những câu ca dao dạng này còn tăng lên rất lớn:

 

Trúc xinh trúc mọc đầu đình

Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

*        *

    *

Nhất quế nhị lan

Nhất xinh, nhất lịch khôn ngoan trăm chiều.

*        *

*

Gặp em thấy khéo miệng cười

Thấy xinh con mắt, thấy tươi má hồng.

 

Có thể nói cái Đẹp là một cảm hứng lớn trong thơ ca trữ tình dân gian người Việt. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả không làm thui chột cảm xúc thẩm mỹ của người dân quê, không làm mất đi những rung động về vẻ đẹp của cảnh vật và con người bắt gặp hằng ngày. Rung động ấy có khi bột phát thành tiếng kêu vui:

 

Do Xuyên đẹp lắm ai ơi

Có về chỗ đó cho tôi về cùng.

 

Nhưng nhiều khi chỉ thể hiện trong cái nhìn trìu mến, yêu thương với cảnh vật:

 

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

*        *

*

Nhác trông phong cảnh vui thay

Báo Bồng có phải chốn này hay không.

 

Trong hoàn cảnh đất nước nông nghiệp lạc hậu, thiên tai đe dọa, làm không đủ ăn, đói no thất thường, đời sống lao động một nắng hai sương, giữ cho được cái nhìn yêu đời và những rung động vô tư như vậy quả thật đáng quý. Đó phải chăng cũng là một nét tính cách của người Việt? Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy là một trong những cội nguồn của sự mến mộ văn chương của người Việt, nhất là đối với thơ ca, sự mến mộ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thì gọi là “bệnh yêu thơ” không chữa được, còn Ngô Thì Sĩ thì gọi là bệnh “nghiện thơ” và chính điều đó đã làm cho nước ta thành “một nước thơ” như lời Ngô Thì Nhậm nói khi bàn thơ với Phan Huy Ích (3). Phải chăng tình yêu cái đẹp ấy có khi đã dẫn đến việc tạo ra nét “văn chương phù hoa” trong tính cách người Việt, như nhận xét của Đào Duy Anh?(4).

Trong ca dao, những cảm xúc về cái đẹp bắt nguồn trước hết từ bức tranh thiên nhiên và phong cảnh. Có rất nhiều câu chữ “Đẹp” đi liền với “Cảnh”:

 

Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi

Có người chinh phụ phương trời đăm đăm.

*        *

*

Đường nào vui bằng đường Thượng Tứ

Cảnh mô đẹp bằng núi Ngự, sông Hương.

 

Cảnh ở đây có thể là cảnh thiên nhiên như hòn Vọng Phu, núi Nhồi, như sông Hương núi Ngự, nhưng cũng có thể là cánh đồng, làng quê, bến nước, con đò, tức là cảnh ở đó tự nhiên và con người gắn với nhau thân thiết, gần gũi:

 

Thanh Trì cảnh đẹp người đông

Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

*        *

*

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình

Của nhiều, đất rộng, gái xinh trai tài.

 

Cảnh hay phong cảnh đi vào ca dao phổ biến nhất trong bốn trường hợp. Thứ nhất là trong những câu mở đầu (5):

Nước sông Gianh vừa trong vừa mát

Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi.

Dang tay ngứt đọt từ bi

Cho lòng bên nớ bên ni kết nguyền.

hay:

Trăng lên đỉnh núi trăng mờ

Mình yêu ta thực hay là ghét chơi ?

 

Thứ hai là trong những câu kể chuyện tâm tình, ở đó cảnh là môi trường gặp gỡ, là nơi tình tự, chờ đợi, nhớ nhung, nơi diễn ra câu chuyện yêu đương:

 

Nước sông Tô vừa trong vừa mát

Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh

Dừng chèo muốn tỏ tâm tình

Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu

*        *

*

Đêm khuya trăng lệch trời trong

Muốn trao duyên với bạn sợ lòng mẹ cha

Thứ ba, trong những câu ca giới thiệu về quê hương xứ sở:

Ai về đến huyện Đông Anh

Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương…

*        *

*

Dạo xem phong cảnh trời mây

Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.

 

Thứ tư, cảnh như đối tượng của sự thưởng thức thẩm mỹ:

 

Gió đưa, đưa lướt chòm thông

Gió bay thông cỗi như lồng bóng ngân

Suối trong leo lẻo trên ngàn

   Kìa con chim Phượng soi làm suối trong.

 

hay:

                                               Ai đi qua phố khoa Trường

Dừng chân ngắm cảnh núi rừng xanh xanh

Dòng sông uốn khúc chảy quanh

Trên đường cái lớn bộ hành ngược xuôi.

Rõ ràng trong trường hợp thứ tư này, thiên nhiên và cảnh vật hiện ra không phải như những đối tượng sở chỉ(reference), ám chỉ hay đưa đẩy, mà là đối tượng của sự chiêm ngưỡng thuần túy. Điều này rất đáng chú ý, nó chứng tỏ ca dao truyền thống không chỉ chứa đựng tâm tư và kinh nghiệm sống ủa người dân quê mà còn thể hiện những rung động thẩm mỹ, tình yêu của họ với cái đẹp của thiên nhiên và cảnh vật xung quanh.

Đặc điểm cơ bản của cảm xúc thẩm mỹ là tính vô tư. Đứng trước một cảnh vật người ta có thể có nhiều cảm xúc khác nhau, nhưng chỉ khi nào cảm xúc thoát khỏi những quan tâm về ý nghĩa hay giá trị thực tế của đối tượng và chỉ tập trung vào hình dáng, màu sắc và sự chuyển động của nó thì cảm xúc đó mới được coi là cảm xúc thẩm mỹ. Trong ca dao chúng ta bắt gặp rất nhiều lần những rung động thẩm mỹ như vậy:

Chiều chiều ra đứng gốc cây

Trong chim bay liệng, trông mây ngang trời

Trông xa xa tít xa vời

Những non cùng nước, những đồi cùng cây.

*        *

*

Trời xanh dưới nước cũng xanh

Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.

 

Có điều cần lưu ý là trong ca dao như đã nói ở trên, đối tượng gây nên cảm xúc thẩm mỹ không chì là thiên nhiên mà nhiều khi còn là những cảnh vật do con người tạo nên, gắn bó với đời sống của họ:

Mênh mông biển lúa xanh rờn

Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau

Một vùng phong cảnh trước sau

Bức tranh thiên cổ đượm màu giang san.

*        *

*

 

Thanh Trì cảnh đẹp người đông

Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Cuộc sống của người nông dân vốn gắn chặt với thiên nhiên, vì vậy vẻ đẹp của thiên nhiên cũng gắn chặt với sinh hoạt của con người. Cái đẹp của phong cảnh có khi là vẻ đẹp của núi, sông, suối khe thuần túy, nhưng nhiều khi là cánh đồng, là bến sông, là con đường người qua lại đông vui. Trong ý thức của người nông dân, cảm xúc thẩm mỹ không phải lúc nào cũng tồn tại độc lập mà thường pha trộn, xen lẫn với những cảm xúc khác, nhất là cảm xúc về cái có ích. Điều này phản ánh rất rõ trong những câu ca dao có chữ “Đẹp” liên quan đến phong cảnh:

Đường về Đông Việt loanh quanh

Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ.

 

Vẻ đẹp của quê hương ở đây gắn với cánh đồng lúa xanh hứa hẹn một mùa gặt no ấm, tức là gắn với cảm giác về sự sung túc, với cái có ích.

Sự pha trộn giữa cảm xúc thẩm mỹ và cảm giác về cái có lợi bộc lộ đặc biệt rõ rệt trong những câu thơ về con sông ở làng quê. Một mặt người dân quê rất yêu mến vẻ đẹp của dòng sông với hình dáng uốn cong mềm mại của nó:

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng…

Hỡi cô thắt bao lưng xanh

Có về Vạn Phúc với anh thì về

Vạn Phúc có cội bờ đề

Có sông uốn khúc có nghề quay tơ.

 

Trong thị hiếu thẩm mỹ của người Việt, đường cong uyển chuyển này in dấu rất đậm nét:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…

Sông Tô một dải lượn vòng

Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh

Sông Hồng uốn khúc chảy quanh

Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài.

Mặt khác, vẻ đẹp của con sông có được không chỉ do hình dáng của nó mà còn nhờ chỗ nó có giá trị “tắm mát”.

 

Làng Chợ đẹp lắm ai ơi

Sông sâu tắm mát trên đồi nương ngô

Vùng Bưởi có lịch, có lề

 sông tắm mát có nghề seo can

Cô kia thắt bao lưng xanh

Có về Yên Mĩ với anh thì về

Yên Mĩ anh có nhiều tre

Có sông tắm mát có nghề trồng ngô.

 

Long tự hào của người dân quê về vẻ đẹp của con sông với những đường nét uốn lượn tự nhiên cùng với công dụng tắm mát của nó cũng tương tự như lời khen ngợi cô thôn nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết:

 

Thấy em đẹp nói đẹp cười

Đẹp người đẹp nết, lại tươi răng vàng

Nhất đẹp là gái làng Cầu

Khéo ăn khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.

 

Thẩm mỹ của người Việt xưa là vậy. Cái đẹp vừa có tính độc lập nhưng cũng vừa gắn với cái Lợi, cái Đức. Con sông uốn khúc cũng đẹp, sông tắm mát cũng đẹp, cả hai đều đẹp. Người có làn da trắng cũng đẹp, người nết na cũng đẹp, cả hai đều được khen là Đẹp. Cái đẹp vừa có cái riêng (như là phẩm chất về hình thức) vừa có cái chung (như tổng hợp của cả hình thức và ý nghĩa) – đó là quan niệm về cái đẹp rất phổ biến trong ca dao truyền thống và có lẽ cũng cả trong dân gian nói chung.

Bức tranh thiên nhiên và phong cảnh làng quê là cội nguồn của những rung động thẩm mỹ trong ca dao. Khảo sát sự lắp đi lắp lại của những cảnh vật trực tiếp khơi dậy những cảm xúc ấy, chúng ta thấy có những điểm đáng chú ý sau đây.

Vẻ đẹp của cảnh núi – sông. Trong ca dao, “nước”, “non”, “sông”, “núi” là những từ có tần số xuất hiện rất cao. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì nước ta có địa hình phức tạp, nhiều núi, nhiều sông, núi và sông gắn chặt với đời sống con người, nên núi sông đi vào ca dao nhiều cũng không có gì đặc biệt. Đáng chú ý là ở chỗ, trong nhiều câu ca dao, núi – sông thường đi liền với nhau, tạo nên một phong cảnh gợi cảm xúc thẩm mỹ:

 

Sông Tuần một dãy nông sờ

Hàm Rồng một dãy lờ mờ núi cao

Vui thay núi thẳm nông sâu

Thuyền đi hai dãy như sao hôm rằm

*         *

*

Đường mô vui bằng đường Thượng Tứ

Cảnh mô đẹp bằng cảnh núi Ngự, sông Hương

 

Có rất nhiều câu ca dao trong đó núi – sông đi với nhau tạo nên một hình ảnh thống nhất về vẻ đẹp của thiên nhiên:

 

Núi Truồi ai đắp mà cao

Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.

*         *

*

Ai ơi đứng lại mà trông

Kìa núi Tam Đảo, kìa sông Tam Kì.

 

Dường như trong cảm thức dân gian, núi chỉ đẹp khi có sông và sông chỉ đẹp khi đi với núi. Sông với núi kết hợp thành một đôi SƠN THỦY như một nguồn cảm hứng của tình yêu hay của lòng tự hào về quê hương:

 

Sáng trăng dạo cẳng đi chơi

Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.

*         *

*

Nhìn xem phong cảnh làng ta

Có sơn có thủy bao la hữu tình.

 

Từ cặp đôi núi sông, sơn thủy này đã hình thành nên biểu tượng nước non phổ biến trong ca dao:

 

Non kia ai đắp mà cao

Sông kia ai bới ai đào mà sâu

Nước non là nước non trời

Ai phân được nước ai dời được non.

 

Nước biếc non xanh trở thành dấu hiệu của vẻ đẹp phong cảnh, thành niềm tự hào về nét đẹp của mỗi vùng quê:

 

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

*         *

*

Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh

Đền Hùng Phú Thọ nước biếc non xanh hữu tình.

 

Vì sao trong ca dao cái đẹp của phong cảnh thường gắn với hình tượng “núi sông”, “sơn thủy”, “nước non”, “non xanh nước biếc”? Ở đây có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Trước hết chúng ta thấy trong sâu thẳm ý thức con người, những gì hài hòa thường là cơ sở tạo nên cảm giác đẹp, dễ chịu, ưa thích. Trong tư duy phương Đông, hài hòa lớn nhất là hài hòa giữa Âm và Dương. Từ cặp hài hòa Âm – Dương sẽ đẻ ra vô số cặp hài hòa khác, phổ biến nhất là những cặp hài hòa mang tính cân đối, đối xứng như kiểu: ngày – đêm, trên – dưới, trong – ngoài, lên – xuống, trưa - tối v.v... Trong ca dao có rất nhiều câu thơ thể hiện nét tư duy ấy:

 

Thương em như lá đài bi

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.

*         *

*

Một người trên núi non Bồng

Một người dưới biển dốc lòng chờ nhau.

*         *

*

Ngược xuôi lên thác xuống ghềnh

Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.

 

Núi - sông sở dĩ trở thành biểu tượng của vẻ đẹp phong cảnh bởi vì nó là cặp hài hòa lớn nhất, rõ rệt nhất, huống chi ngoài điều đó ra, ở nước ta núi - sông vốn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của con người, mọi công việc làm ăn, đói no, mọi sinh hoạt vui buồn đều gắn với sông, với núi; sông núi rất gần gũi, thân thiết với con người. Tất cả điều đó làm cho sông núi dễ trở thành biểu tượng tiêu biểu của cái đẹp phong cảnh thường được nhắc đến trong ca dao.

Ngoài ra, ở đây cũng còn một lí do nữa. Sở dĩ ca dao tả phong cảnh thường nói đến sơn - thủy, nước - non có lẽ một phần vì theo quan niệm cổ xưa của phương Đông, núi sông là cốt tủy của sự sống, núi không thể thiếu sông, sông cần phải có núi, thiếu một trong hai cái đó, sự sống không tồn tại, như dương thiếu âm, âm không có dương. Hình ảnh sông núi bên nhau bởi vậy trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của vũ trụ, của đất trời. Để giải thích vì sao tranh sơn thủy Trung Hoa thường vẽ cảnh núi sông, danh họa đời Bắc Tống Quách Hy đã viết: “…núi có sông thì sinh động, có cây cỏ thì đẹp tươi, có khói mây thì mỹ lệ. Sông lấy núi làm khuôn mặt, lấy đình, tạ làm vui mắt, lấy người câu cá làm tinh thần. Cho nên sông có núi thì đẹp… Đó là sự bố trí của núi sông”(6). Trong ý nghĩa ấy có thể nói những câu ca dao về thiên nhiên là những bức tranh sơn thủy.

Bên cạnh “sơn thủy”,”nước non khi nói đến phong cảnh, trong ca dao còn thường gặp hai chữ “hữu tình”:

Nhìn xem phong cảnh làng ta

Có sơn, có thủy bao la hữu tình.

*         *

*

Sáng trăng dạo cẳng đi chơi

Dạo miền sơn thủy là nơi hữu tình.

 

Ở đây vẻ đẹp của sơn thủy không chỉ còn là vẻ đẹp của sự hài hòa như bản chất của sự sống mà còn mang một sắc thái khác – sắc thái của tình yêu. Cảnh đẹp là cảnh phải có tình. Tình ở đây trước hết là tình yêu lứa đôi, có sơn có thủy, có mình có ta. Sơn thủy sở dĩ đẹp vì nó tượng trưng cho tình yêu, tượng trưng cho hình ảnh người con trai và người con gái cho sự sống có cặp có đôi:

Nước non, non nước khơi chừng

Ái ân đôi chữ, xin đừng xa nhau.

 

Chính từ cảm hứng về vẻ đẹp của nước non như biểu tượng của tình yêu trong ca dao, Tản Đà đã viết nên bài “Thề non nước” nổi tiếng:

 

Nước non nặng một lời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non…

 

Như chúng ta thấy cảnh đẹp là cảnh “hữu tình”. Nhưng “hữu tình” không phải chỉ là đẹp. “Hữu tình” cũng không phải chỉ gắn với tình yêu:

 

Ở đây sơn thủy hữu tình

Có thuyền, có bến, có mình có ta.

*         *

*

Đại Hoàng phong cảnh hữu tình

Của nhiều đất rộng, gái xinh, trai tài.

*         *

*

Kim Liên phong cảnh hữu tình

Dương cơ cũng lịch, địa hình cũng vui.

 

“Hữu tình” còn gắn với hạnh phúc, no ấm, với độ phì nhiêu của đất đai, với cuộc sống tấp nập và với chính sự hiện diện đẹp đẽ của con người. Rõ ràng cả ở đây thẩm mỹ của dân gian rất nhất quán: cái đẹp luôn gắn với cái có ích. Nhưng ở đây cũng cho thấy một nét tính cách nữa của người Việt, đó là coi trọng chữ tình. Cảnh quí không phải chỉ đẹp mà còn phải hữu tình, hay nói cách khác, đẹp là phải hữu tình, khen một phong cảnh “hữu tình” thì không chỉ là khen nó mỹ miều mà còn khen nó vì nó gợi ra những liên tưởng về tình yêu hoặc cuộc sống no ấm. Chữ tình này là một đặc điểm nổi bật trong tính cách người Việt, thể hiện cả trong thị hiếu thẩm mỹ, trong tình yêu, trong cuộc sống và do đó cả trong văn học, trong ca dao:

 

Yêu nhau căn dặn đủ điều

Càng say về nết, càng yêu vì tình

*        *

*

Sống mà chẳng có chữ tình

Thì em cũng quyết liều mình cho xong.

 

Tìm hiểu đặc điểm của thiên nhiên và phong cảnh như ngọn nguồn của cảm xúc về cái đẹp trong ca dao, chúng ta thấy những cảnh “hữu tình” thường là những cảnh động:

Ở đây phong cảnh vui thay

Trên chợ dưới bến lại có gốc cây hữu tình.

*        *

*

Trên trời có đám mây vàng

Bên sông nước chảy có nàng quay tơ.

 

Người dân quê tuy cuộc sống vất vả, làm lụng cực nhọc, hứng chịu đủ hậu quả thiên tai và bất công xã hội, nhưng nhìn chung cái nhìn của họ về cuộc sống vẫn trong sáng, thấm đượm lòng yêu thiên nhiên, yêu đời. Không có cái nhìn ấy không thể ngắm và vui với phong cảnh quê hương. Niềm vui ấy làm cho cảnh vật trở nên sống động, linh hoạt, tràn đầy sinh khí:

 

Trời xanh dưới nước cũng xanh

Trên non gió thổi dưới gành sóng xao.

*       *

*

Vì mây cho núi lên trời

Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng…

*    *

                                                                              *

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng

Bên bờ vải nhãn hai làng

Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

 

Thị hiếu thẩm mỹ dân gian bộc lộ ở đây không chỉ thể hiện cái nhìn lạc quan về cuộc sống. Trong gốc rễ sâu xa, nó gắn liền với vũ trụ quan của người dân quê, với ý niệm thô sơ về tự nhiên, xem sự sinh trưởng và vận động của vạn vật là sự sống và bản thân sự sống đã là đẹp. Đối với người dân quê, quả thực “cái đẹp là cuộc sống”.“Trên một mức độ nào đó, cây xào xạc, cành cây đu đưa, lá cây run rẩn cũng làm ta nghĩ đến cuộc sống của con người… Một phong cảnh đẹp là khi nó có hoạt khí”(7). Cái “hoạt khí” toát lên từ cảnh gió thổi, sóng xao, hoa cười, cá lội tung tăng chứng tỏ phong cảnh trong những câu ca dao trên tràn đầy sự sống và do đó theo thểm mỹ của những người dân quê, nó cũng tràn đầy cái đẹp.

Điều này cho phép chúng ta giải thích thêm một đặc điểm nữa của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao – đó là vì sao trong ca dao thường bắt gặp rất nhiều màu xanh:

Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

*      *

*

Cát Chính có cây đa xanh

Có đường cái lớn chạy quanh trong làng.

*      *

*

Dừa xanh trên bến hai hang

Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.

 

Không chỉ “rau xanh” (con cò lội bãi rau xanh/ Đắng cay chịu vậy than rằng cùng ai) mà còn có “sen xanh” (Xuống đầm ngắt lá sen xanh/ Thấy chim loan phượng đỗ cành xoan nâu), “nải chuối xanh” (Lọng vàng che nải chuối xanh/ Tiếc con chim phượng đậu nhành tre khô), rồi đến “đồng xanh” (Đường về Đông Việt loanh quanh/ Đồng xanh làng đẹp như tranh họa đồ), “rừng xanh” (Muốn tắm mát xuống ngọn sông Đào/ Muốn ăn sim chin thì vào rừng xanh), “núi xanh” (Chim  khôn bay lượn ngang trời/ Trong non non biếc, trông người người xa).

Đáng chú ý là không chỉ đồng xanh, rừng xanh, mà cả biển cũng xanh, trời cũng xanh, mây xanh, sông xanh, nước xanh, hồ xanh, đến chim cũng xanh:

Rừng xanh cả biển cũng xanh

Để xem cây quế ngả cành về đâu.

*    *

*

Trên trời có đám mây xanh

Có bông hoa lí, có nhành mẫu đơn.

*    *

*

Sông xanh phẳng lặng nước đầy

Tình chung hai chữ nghĩa này giao hoan.

*     *

*

Ai đi qua đò có biết

Dòng nước trong xanh biết là bao.

*   *

*

Con chim nhạn xanh xếp cánh bay chuyền

Phận em là gái thuyền quyên má đào.

 

Sự đậm đặc của màu xanh trong ca dao rõ ràng là sự phản ánh màu sắc của thiên nhiên nước ta, một vùng đất nhiệt đới có nhiều cây xanh, nhiều rừng, nhiều cánh đồng trồng lúa và có bờ biển dài từ Bắc đến Nam. Nhưng không phải chỉ như vậy. Cây xanh, đồng xanh, rừng xanh luôn luôn là biểu tượng của sự sinh trưởng, tốt tươi, trù phú. Màu xanh ở đây không chỉ là màu của thiên nhiên mà còn là màu của sự sống. Màu xanh trở thành tượng trưng cho vẻ đẹp của tự nhiên tràn đầy sức sống. Màu xanh cũng thể hiện cái nhìn tươi mới, yêu đời của người dân quê đối với phong cảnh thiên nhiên, thể hiện một nét đáng yêu trong thẩm mỹ dân gian. Chính cái màu xanh ấy và cùng với nó là những rung động thẩm mỹ chứa đầy tình yêu sự sống đã đi vào sáng tác của văn chương bác học làm cho câu thơ mang đậm chất thẩm mỹ dân gian:

Cỏ xanh như khói bến Xuân tươi

Lại có mưa Xuân vỗ nước trời.

                                                                 (Nguyễn Trãi)

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

                                                                (Nguyễn Du)

 

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

                                                                        (Hàn Mặc Tử)

 

 

Cái đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng lớn của ca dao. Nó là cái đẹp đầu tiên, cái đẹp có trước. Người có đẹp thì người cũng chỉ là một bộ phận của tự nhiên: “Người ta hoa đất”. Trong thẩm mỹ dân gian vẻ đẹp của con người và thiên nhiên hòa với nhau, tô điểm cho nhau, nhưng dường như cái đẹp của thiên nhiên vẫn cao hơn, như là thước đo, như là chuẩn mực:

 

Thấy em mắt phượng môi son

Mày ngài da tuyết đào non trên cành.

 

Điều này giải thích vì sao trong ca dao vẻ đẹp của con người thường được ví với cây, với lá, với hoa:

 

 

Em như cái búp hoa hồng

Anh giơ tay muốn bẻ về bồng nâng niu.

*        *

*

Gái Dự Quần đẹp như hoa lí

Trai thanh tân có ý mà theo.

*        *

*

Nhác trông thấy một bóng người

Răng đen nhưng nhức, miệng cười như hoa.

 

 

Vẻ đẹp của thiên nhiên tràn ngập trong ca dao, hiện lên trên phong cảnh, trên hình dáng và khuôn mặt con người. Thái độ đối với cái đẹp của thiên nhiên ấy vừa phản ánh vũ trụ quan thô sơ của người dân quê coi con người và thiên nhiên như là một, vừa nói lên tình yêu của họ đối với thiên nhiên, một tình yêu vừa có ý nghĩa mỹ học sâu sắc, vừa chứa đựng trong nó một nhãn quan về môi trường rất nhân văn và hiện đại.

 

Tìm hiểu cái đẹp của thiên nhiên và phong cảnh trong ca dao chính là tìm hiểu cách con người cảm nhận vẻ đẹp của thế giới xung quanh, tìm hiểu đặc điểm của những rung động thẩm mỹ đã để lại dấu vết trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, trong cách đề cao, khen ngợi những cảnh vật được ưa thích. Từ những khảo sát bước đầu trên đây, chúng ta thấy tình yêu thiên nhiên, trong đó có yêu cái đẹp của thiên nhiên, phong cảnh là một nét nổi bật trong tính cách người Việt. Đối với người dân quê, cảnh đẹp là cảnh có sơn có thủy, sông núi hài hòa, núi sông uốn lượng mềm mại, cảnh vật luân chuyển, hoạt động, tràn đầy sinh khí và sức sống (“xanh tươi”) nhưng cũng đầy tình tứ, gắn bó, tương thông với con người (“hữu tình”). Cảnh đẹp ấy bên cạnh hình dáng uyển chuyển và màu sắc tươi tắn còn là hình ảnh của ấm no, hạnh phúc. Trong thẩm mỹ của người dân quê, cái đẹp và cái có ích không loại bỏ nhau mà gắn chặt với nhau.

 

Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, nhưng cái đẹp không chỉ có trong nghệ thuật. Cái đẹp có cả trong thiên nhiên trong phong cảnh. Rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên là một bộ phận trong kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Tìm hiểu những rung động thẩm mỹ thể hiện qua ca dao truyền thống cũng là một cách tiếp cận bản sắc văn hóa của người Việt và tìm hiểu cái đẹp của nghệ thuật. “Mỹ học tự nhiên sẽ cho chúng ta những cơ sở cần thiết để xây dựng triết học nghệ thuật”

Bình luận (0)
Xem chi tiết

Ông bà kính mến.

Nhân dịp đầu năm mới. Cháu xin phép được thay mặt bố mẹ cháu gửi đến ông bà lời chúc đầu năm mới.

Chúc ông bà luôn mạnh khoẻ, sống lâu để mỗi năm vào dịp hè cháu lại được vào thành phố mang tên Bác gặp mặt ông bà.

Không biết ở trong ấy ông bà và chú thím Vinh đón xuân có vui không? Ngoài này thì mấy ngày giáp Tết rét đậm, nhưng từ chiều mồng một trở đi trời ấm dần, không khí Xuân tràn đầy đường làng. Hai cây gạo đầu xóm đã bắt đầu nở hoa. Cây thị nhà ta đang trút lá để trổ nụ.

Mỗi lần Tết đến nhìn cây đào ông trồng trước cửa nhà rực rỡ màu đỏ, cháu nhớ ông da diết. Còn mỗi lần gói bánh mật, làm chè Lam, là cháu lại nhớ đến tay bà sao mà khéo thế!

Quê làng ta năm nay ăn Tết vui lắm vì đã cấy xong lúa chiêm cánh đồng dưới, tra xong ngô, đỗ ở cánh đồng màu nên mọi người có thì giờ rảnh rang sắm Tết.

 Trước khi dừng bút, một lần nữa cho cháu chúc sức khoẻ ông, bà sang năm mới sẽ vui vẻ, khoẻ mạnh để bố mẹ và các cháu yên tâm làm việc và học tập.

                                                                                                                                                   Cháu của ông bà

                                                                                                                                                        Thanh Nguyên   

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Ngoc Han ♪
2 tháng 11 2019 lúc 18:55

TrL

Bắc Giang , ngày 2 tháng 11 năm 2019

Ông bà kính yêu!

Năm cũ sắp hết, mùa xuân đang về ông bà ạ. Tết này nhà cháu không về quê đón Tết cùng ông bà được nên cháu viết thư này thăm hỏi và chúc Tết ông bà.

Mùa đông năm nay ông bà có khỏe không? Ông bà có ăn được nhiều cơm không? Khi trời trở gió bấc nhiều. Bà nhớ đi tất cho chân đỡ nứt nẻ nhé! Cả ông cũng thế, ông cũng nhớ phải quàng thêm khăn cho ấm cổ để đỡ ho ông nhé. Con Miu bố cháu đem về quê dạo hè nay lớn nhiều chưa hả ông bà? Nó đã biết trông nhà chưa ạ? Ông bà nhớ nhắc em Phong tắm cho nó để kẻo bẩn mà rụng hết lông đấy ông bà ạ. Miu có giúp chú Hưng được việc gì không hả ông bà? Cháu lo nó không biết làm gì thì chú chăm nó mệt lắm đấy ạ. Cháu nghe bố cháu kể Bê-tô khôn lắm, chú Hưng dạy cho nó biết nhiều việc. Tiếc quá, Tết này cháu nghỉ có ít ngày nên về quê không tiện, bố mẹ cháu bảo để hè về được nhiều ngày hơn. Cháu nhớ ông bà, các cô chú và em Phong, cả con Bê-tô nữa.

Cả nhà cháu đều bình thường. Cháu và em Bách đều được xếp loại học sinh giỏi học kì I. Mẹ cháu đang bận gói quà gửi về biếu Tết ông bà đấy ạ! Cháu xin thay mặt cả nhà kính chúc ông bà một năm mới nhiều sức khỏe, bình an và luôn luôn vui tươi, sảng khoái. Cháu kính chúc chú thím Hưng và các em một năm mới mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, các em đều học giỏi và có nhiều niềm vui. Khi nào ông bà nhận được thư này và quà Tết mẹ cháu gửi biếu, ông bà nhớ điện thoại cho cháu ông bà nhé!

Cháu xin phép dừng bút. Cháu yêu ông bà nhiều. Cháu mong sớm được gặp lại ông bà!

Cháu của ông bà

Nguyễn Thị Ngọc Anh

Mk điền giúp bn ròi nha

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
#𝒌𝒂𝒎𝒊ㅤ♪
2 tháng 11 2019 lúc 18:59

                                                                         Tham khảo nhoa :v

........, ngày 2 tháng 11 năm 2018

Trang thân mến!

Thư trước, mình viết cho bạn đã lâu mà chưa nhận được thư trả lời, sốt ruột, mình viết tiếp cho bạn một lá nữa đây. Đầu thư, mình xin gửi lời hỏi thăm sức khoẻ đến bạn cùng toàn thể gia đình.

Từ ngày bạn theo bố mẹ chuyển vào thành phố ........., chắc là mọi việc đều thuận lợi cả chứ? Trường mới có gần nhà không? Bạn đã kết thân với bạn nào chưa? Mình tin rằng bạn vẫn tiếp tục học giỏi như hồi ở ngoài này.

Mình không thể nào quên những kỉ niệm đẹp đẽ trong tình bạn của chúng ta. Hình ảnh nụ cười tươi tắn và hai bím tóc xinh xinh của cô bạn thân thiết đã in sâu trong tâm trí mình. Ngoài này, lớp mình vẫn thế. Các bạn nhắc Trang luôn đấy!

Thời gian cuối năm trôi qua nhanh thật, hôm nay đã là ngày tiễn ông Táo cưỡi cá chép mang sớ lên chầu Trời. Chỉ một tuần nữa là chúng mình lại dược xúng xính trong bộ quần áo mới, cùng ông bà, cha mẹ đi chúc Tết và dạo chơi xuân. Nghĩ đến những điều thú vị mỗi dịp Tết đến, xuân về, mình lại nhớ bạn vô cùng! Tết này, mình và bạn không còn được nắm tay nhau vui vẻ len lách trong dòng người đông nghịt đổ ra xung quanh Hồ Gươm để đón giao thừa như mọi năm. Tiếc quá!

Nhân dịp năm mới, mình xin gửi tới gia đình bạn lời chúc mừng chân thành và tốt đẹp nhất! Chúc Trang học giỏi, hát hay và gặp được nhiều điều may mắn!

Hẹn gặp nhau lại .......... hè tới nhé ! Thân ái chào bạn!

Bạn cũ

Ánh PHương

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa