dàn bài nêu cảm nhận về điệu hò Huế
Tìm một câu bị động có trong đoạn trích sau và nêu mục đích của câu đó :
" Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò , hò khi đánh cá trên sông ngòi , biển cả , hò lúc cấy cày , gặt hái , trồng cây , chăn tằm . Mỗi câu hò huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn . Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến , nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức , ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba , phong phú . Chèo cạn , bài thai , hò đưa linh buồn bã , hò giã gạo , ru em , giã vôi , giã điệp , bài chòi , bài tiệm , nàng vung náo nức nồng hậu tình người . Hò lơ , hò ô , xay lúa , hò nện gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh . Hò Huế thể hiện lòng khao khát , nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế . Ngoài ra còn có các điệu lí như : lí con sáo , lí hoài xuân , lí hoài nam . "
câu bị động: "Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn... phong phú".
Mục đích: chỉ ra vai trò của từ ngữ địa phương đối với dân ca xứ Huế.
Viết đoạn văn (20 câu) nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối bài "Mùa xuân nho nhỏ" để nói lên lời ngợi ca quê hương đất nước qua giai điệu dân ca xứ Huế!!!
Bài : Ca Huế trên Sông Hương
- Có mấy làn điệu trong bài ?
- Viết 1 đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về bài Ca Huế trên sông Hương ( Viết ngắn nhưng đầy đủ ý )
Bài: Sống chết mặc bây
- Cảm nghĩ của em về bài văn (viết ngắn nhưng đầy đủ ý thôi)
- Cảm nghĩ của tác giả đối với sinh mạng của người dân.
giúp mk vs, mai mk thi khảo sát giữa hk rùi , mà mk ngu văn nhất nên ⇒ help me
Bài 2: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba, phong phú. Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã, hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Hò Huế thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế. Ngoài ra còn có các điệu lí như: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam... Câu 1: Đoạn văn trên nằm trong văn bản nào? Hãy nêu rõ tên tác giả. Câu 2: Ca Huế rất đa dạng. Theo em sự đa dạng và phong phú ấy được thể hiện qua những điểm nào? Các làn điệu dân ca Huế nói lên những tình cảm nào của con người. Câu 3: Chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn trên? Nêu tác dụng? Câu 4: Qua văn bản trên, em thấy tác giả là người như thế nào?
lần sau nhớ trình bày câu hỏi sao cho cẩn thận nhé
Câu 1 : Đoạn văn trên nằm trong văn bản Ca Huế trên sông Hương
Hà Ánh Minh là tác giả
Câu 2 : Ca Huế rất đa dạng. Theo em sự đa dạng và phong phú ấy được thể hiện qua những điểm :
+ Thể hiện qua điểm có nhiều nhạc cụ như đàn nguyệt, sáo, tì bà
+thể hiện qua những từ ngữ địa phương được sử dụng nhuần nhuyễn
+Các điệu hò vô cùng đa dạng và phong với với nhiều bài ca hay và nổi bật.
Các làn điệu dân ca Huế đã nói lên tình cảm của con người là thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng của người dân Huế về các làn điệu dân ca độc đáo đó.
Câu 3 :
BPTT : liệt kê
tác dụng : Phép liệt kê không chỉ cho người đọc thấy sự phong phú của nghệ thuật ca Huế mà còn thấy sự phong phú của tâm hồn người Huế.
Câu 4 :
Qua văn bản trên, em thấy tác giả là một người rất yêu thích quan sát và nghe Ca Huế , Nhờ có sự yêu thích đó mà tác giả có thể quan sát và miêu tả Ca Huế một cách cẩn thận và chi tiết nhất
viết một đoạn văn nêu cảm nhận về việc bảo tồn và phát huy những làn điệu dân ca truyền thống sau khi đọc xong văn bản ca huế trên sông hương
Làn điệu dân ca cổ truyền cùng các loại hình sân khấu từ lâu trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người dân, thể hiện bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc, vùng miền. Vĩnh Phúc là tỉnh còn lưu giữ nhiều làn điệu truyền thống đặc sắc, song do công tác bảo tồn gặp nhiều khó khăn nên các làn điệu truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một.
Về Trung Mỹ (Bình Xuyên), chúng tôi được Phó Chủ tịch UBND xã Lưu Văn Thành kể nghe nhiều câu chuyện về những người say hát Soọng cô, say đến quên ăn, quên ngủ. Ông Thành cho biết, Soọng cô là làn điệu dân ca trữ tình, một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Người Sán Dìu có thể nhịn ăn một ngày nhưng không thể nhịn hát trong một giờ. Khi đi chợ, làm đồng cho tới lúc ở nhà, người Sán Dìu đều hát, khi thì hát thành tiếng, khi lại chỉ hát lẩm nhẩm, thì thầm như sợ người khác nghe thấy. Có ông Quán ở thôn Trung Mầu say hát đến nỗi, mỗi ngày, ông đều thức dậy từ 4 giờ sáng để tập hát, tập cho đến lúc mặt trời bắt đầu lên trên ngọn núi sau nhà, ông Quán mới ra đứng trước mái hiên để ngóng bạn chơi. Bạn của ông Quán là ông Truyền, ông Man, cũng đều là những người say hát, họ tụ tập ngồi hát đến trưa, đến chiều không biết chán. Đã thế, đến tối, họ lại kéo đến nhà nhau hát cho tới nửa đêm mới về.
Trước kia, những người mê hát Soọng cô ở Trung Mỹ thường tập hợp theo từng nhóm đơn lẻ, nhưng vài năm trở lại đây, do nhu cầu cấp thiết cần phải bảo tồn làn điệu truyền thống của dân tộc, mỗi thôn đã thành lập CLB hát Soọng cô và sinh hoạt đều đặn hàng tuần. Ở Trung Mỹ, CLB hát Soọng cô thôn Trung Mầu thành lập từ năm 2012, hiện có 60 thành viên, tất thảy đều say mê hát. Không chỉ sinh hoạt tại địa phương, nhiều thành viên trong CLB còn đi thi hát với các CLB ở Thái Nguyên, Bắc Giang, Lạng Sơn... Phong trào giao lưu văn nghệ mang tính tự phát, nên các thành viên cùng góp tiền, thuê xe rồi cử một số thành viên tiêu biểu trong CLB đi giao lưu với tỉnh bạn. Bà Dương Thị Sinh, cựu thành viên cốt cán trong CLB thôn Trung Mầu cho biết, đoàn thường đi từ sáng đến tối, thậm chí là đi qua đêm đến sáng hôm sau mới về. Khi giao lưu, già trẻ gái trai đều hăng say hát, dẫm lên cả đám cỏ mà hát, bị kiến đốt vẫn cứ hát. Lúc Đoàn chủ nhà bưng cơm ra, các thành viên hát mời cơm tới 30 phút khiến cơm canh đều nguội cả. Lúc về nhà, mọi người còn nhớ nhung, lưu luyến nhau nên tiếp tục gọi điện thoại cả giờ đồng hồ để hát tiếp, đến nỗi hết sạch tiền trong tài khoản. Thấy tôi thắc mắc không hiểu vì sao người Sán Dìu lại mê hát Soọng cô đến vậy, bà Sinh lý giải: “Hát Soọng cô là hình thức hát đối đáp nhau, vừa để tìm hiểu, vừa để trổ tài. Nếu đội bạn hát mà đội mình không đối lại được thì các thành viên rất buồn. Do đó, về nhà phải tập thật nhiều bài hát mới để hôm sau hát đối lại, phải hát cho đến khi nào thắng mới thôi”. Bà Sinh tập hát Soọng cô từ lúc 15 tuổi, đến nay, hơn 30 năm, bà không thể nhớ mình học thuộc lòng tất cả bao nhiêu bài hát nữa.
Thôn Cổ Tích (xã Đồng Cương, Yên Lạc) cũng có những người mê hát, say hát như ở Trung Mỹ. Thể loại âm nhạc mà họ yêu thích nhất là chèo. Một lần về Cổ Tích, tôi được nghe các thành viên trong đội chèo của thôn trình diễn tiết mục “cây cau con trồng” rất xúc động. Ông Nguyễn Văn Thư, Phó Chủ nhiệm CLB văn nghệ thôn Cổ Tích cho biết, các thành viên trong CLB, đặc biệt, các cụ già trên 60 tuổi đều “nghiện” chèo như nghiện thuốc phiện. Tối đến, cơm nước xong là các cụ tụ tập tại nhà văn hóa thôn để hát. Đêm đến, nhiều cụ không ngủ được lại mở đài nghe hát chèo trên kênh VOV của Đài Tiếng nói Việt Nam. Ngoài những lúc vui vầy bên con cháu, văn nghệ đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của các cụ.
Làn điệu cổ truyền của mỗi dân tộc không chỉ là lời ca tiếng hát để mua vui, giải trí, trên hết, nó thể hiện hồn phách, trí tuệ được kết tinh qua hàng ngàn, hàng vạn năm. Ông Lưu Văn Thành, Phó Chủ tịch UBND xã Trung Mỹ chia sẻ: “Làn điệu Soọng cô là vốn văn hóa quý giá của dân tộc Sán Dìu, nếu không truyền dạy sẽ mai một. Ngày nay, nhiều người trẻ ở Trung Mỹ không biết hát Soọng cô, đa số thích hát và nghe nhạc hiện đại hơn. Những người mê hát Soọng cô chủ yếu trên 50 tuổi, họ thường dạy hát cho con cháu nhưng không mấy người tiếp thu được. Các CLB hát Soọng cô thành lập một cách tự phát, thiếu kinh phí hoạt động, các thành viên trong CLB thường tìm kiếm việc làm để có thêm thu nhập, đóng góp kinh phí duy trì hoạt động CLB.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh rất nhiều CLB văn nghệ còn giữ được các làn điệu dân ca truyền thống. Tuy nhiên, hầu hết các CLB hoạt động tự phát, không có sự khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí và định hướng bảo tồn các làn điệu truyền thống. Bà Nguyễn Thị Diện, Trưởng Ban Quản lý di tích, Sở VH- TT & DL cho biết, các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Từ năm 2011 - 2013, Sở VH, TT & DL giao cho Ban Quản lý di tích thực hiện kiểm kê lại các di tích văn hóa phi vật thể (trong đó có các làn điệu dân ca cổ truyền) nhưng đến nay mới tiến hành kiểm kê xong 4 huyện, thị (Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, thị xã Phúc Yên), các địa phương còn lại chưa thực hiện kiểm kê do còn thiếu kinh phí. Công tác vinh danh nghệ nhân tiêu biểu trong quần chúng chưa được thực hiện, đa số người dân chưa phân biệt được các hình thức, thể loại tác phẩm âm nhạc truyền thống, công tác bảo tồn các làn điệu dân ca cổ truyền gặp nhiều khó khăn. Theo bà Nguyễn Thị Diện, trong những năm tới, tỉnh cần có chính sách khuyến khích việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, nhất là bảo tồn các làn điệu dân ca truyền thống, tăng cường mở lớp tập huấn các loại hình hát ca trù, chầu văn, hát xoan, chèo… hoặc tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu về văn hóa phi vật thể. Bên cạnh đó, tăng cường hỗ trợ, đầu tư kinh phí tiếp tục thực hiện các dự án kiểm kê, hoạch định chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể.
Con tìm từ ngữ thay thế cho từ in đậm trong đoạn sau:
Nhà thơ Tố Hữu sinh ra ở Thừa Thiên- Huế. Mảnh đất kinh thành chính là quê hương của ông. Tại nơi này ông đã lớn lên trong những điệu hò mái nhì trên dòng sông Hương. Sau này, khi trở thành nhà thơ, âm vang của những điệu hò Huế vận quện vào nhịp điệu của nhiều bài thơ mà ông sáng tác.
A. giang sơn
B. đất nước
C. nơi chôn rau cắt rốn
Từ thích hợp là : nơi chôn rau cắt rốn.
qua những làn điệu ca Huế đã giúp em cảm nhận được điều gì về tâm hồn của con người xứ Huế ?
bạn tham khảo nha.
Việt Nam là đất nước giàu truyền thống văn hóa, lịch sử. Mỗi vùng miền có những nét đặc sắc riêng về văn hóa, Bắc Ninh có quan họ, Tây Nguyên có cồng chiêng… Đến với sông nước Huế mộng mơ ta có ca Huế - nét đặc sắc của người Huế nói riêng và của Việt Nam nói chung. Những nét nổi bật đó đã được phản ánh một cách chi tiết qua văn bản Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.Ca Huế trên sông Hương là văn bản nhật dụng, tác phẩm đã giới thiệu sự phong phú, đa dạng của ca Huế về nội dung, làn điệu, sự tinh tế trong biểu diễn và thưởng thức. Đây là nét đẹp của cố đô Huế cần được giữ gìn và phát triển.
Mở đầu tác phẩm là sự khẳng định của Hà Ánh Minh về xứ Huế: “Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăm tằm” như vậy ta có thể thấy rằng hò là nếp sinh hoạt văn hóa quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức, đời sống của người dân xứ Huế. Không chỉ dừng lại ở đó, với biện pháp liệt kê Hà Ánh Minh còn cho thấy sự đa dạng, phong phú của các điệu hò: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh, hò giã dạo, ru em, hò giã vôi, giã điệp,… Có vô vàn các điệu hò khác nhau thể hiện những suy nghĩ, những cung bậc tình cảm của con người và dù điệu hò đó có ngắn hay dài thì nó vẫn luôn thể hiện trọn vẹn một ý tình của người hát.Cái hay nhất, đặc sắc nhất chính là phần tác giả nói về hình thức sinh hoạt văn hóa ca Huế được diễn ra trên sông Hương, chỉ cần đọc những nét chữ tài hoa của tác giả ta cũng như được sống trong cái êm ái, dìu dặt của âm nhạc Huế.
Bằng sự am hiểu của mình, tác giả đã lí giải nguồn gốc của ca Huế được hình thành từ nhạc dân gian (mang âm hưởng sôi nổi, lạc quan) kết hợp với nhạc cung đình (tôn nghiêm, trang trọng, uy nghi). Với sự kết hợp hai yêu tố đối lập tưởng chừng như không thể hòa hợp được với nhau nhưng lại chính là yếu tố làm nên tính chất nổi bật nhất của ca Huế là sự đa dạng về hình thức, phong phú về sắc thái tình cảm.
Cách thức biểu diễn ca Huế cũng được tác giả mô tả rất chi tiết, cách vào đề vô cùng tự nhiên : “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục” người lữ khách bước xuống thuyền rồng, hóng mát, ngắm trăng và thưởng thức cái tinh hoa nhất của xứ Huế ấy chính là các làn điệu dân ca. Qua từng chặng, từng lớp lang, Hà Ánh Minh đã cho người đọc thấy được cách thức biểu diễn, công cụ cũng như tâm tư, tình cảm của con người nơi đây được gửi gắm qua mỗi câu hát, lời hò đó.
Nhạc cụ để chơi ca Huế cũng rất phong phú, bao gồm: đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp, dàn nhạc thật thanh lịch, tinh tế, mang đậm tính dân tộc. Với những nhạc cụ này cùng với các nhạc công tài hoa đã tạo nên những bài hò đặc sắc, in đậm dấu ấn trong lòng người nghe.
Biểu diễn các làn điệu Huế còn có sự góp mặt của các ca công, họ đều là những người còn rất trẻ, nam mặc quần thụng, áo the, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Các nhạc công sử dụng những ngón đàn trau chuốt như: nhấn, mổ, vỗ, ngón bấm,… trong không gian yên tĩnh những âm thanh ấy hòa quyện vào nhau du dương, trầm bổng, réo rắt khiến cả khung cảnh và con người như bừng tỉnh giấc, làm xao động cõi sâu thẳm nhất trong lòng mỗi con người.
Để thưởng thức trọn vẹn cái hay cái đẹp của ca Huế, thì lựa chọn khung cảnh cũng hết sức quan trọng. Phải là trên một con thuyền rồng, lênh đênh giữa dòng sông Hương mơ mộng, với ánh trăng trải vàng khắp mọi nơi, không gian huyền ảo, sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền… không gian ấy tạo nên sự cổ kính, trang trọng nhưng đồng thời cũng hết sức hòa hợp với thiên nhiên. Không chỉ vậy không gian đó làm tâm hồn ta thêm thanh tịnh, trong sạch để cảm nhận tất cả những gì tinh túy nhất của ca Huế. Làn điệu ca Huế đa dạng, phong phú khi buồn bã, bi ai khi lại sôi nổi, vui tươi như chính những cung bậc cảm xúc của con người nơi đây.
Bài viết đã thể hiện những nét nghệ thuật đặc sắc của bút kí kết hợp với nghị luận, miêu tả và biểu cảm của tác giả. Bằng biện pháp liệt kê tác giả đã cho thấy nhiều nét đặc sắc, đặc trưng riêng của làn điệu dân ca xứ Huế. Nhà văn vừa liệt kê vừa kết hợp với bình luận giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự phong phú của các làn điệu, sự sâu sắc và tâm hồn con người Huế gửi gắm qua mỗi câu ca, lời hát đó.
Chỉ với một bài viết ngắn gọn, cô đọng và sâu sắc tác giả đã làm nổi bật những nét đặc sắc của ca Huế. Nét tinh hoa của xứ Huế - ca Huế được gói gọn trong lớp ngôn từ giản dị, mượt mà, nhẹ nhàng giàu tình cảm. Cho thấy tình yêu sâu nặng của tác giả với văn hóa, con người nơi đây.
chúc bạn học tốt.
Vt đoạn văn diễn dịch khoảng 8 câu nêu cảm nhận của e về nguồn gốc ,sự phong phú về làn điệu và sâu sắc về nội dung của ca huế .Trong đoạn văn có sử dụng câu chứa dấu chấm phẩy.Mong mn giúp
Em tham khảo nhé:
Ca Huế trên sông Hương là một hình thức sinh họat văn hóa âm nhạc thanh lịch và tao nhã,mang đậm nét đặc sắc dân tộc;nhưng ko phải mấy ai cũng từng đc thưởng thức nó một lần.Qua vbản ''Ca Huế trên sông Hương'',chúng ta đã phần nào cảm nhận đc vẻ đẹp ấy.Ca Huế phong phú vs nhiều các điệu hò:hò đưa linh,hò giã gạo,...;các điệu lí:lí con sáo ,lí hoài xuận,lí hoài nam; các điệu nam:nam ai,nam bình,nam xuận;....Một nét đặc trưng riêng mà ko ở đâu có đc nữa là ca Huế đc tổ chức vào buổi tối,trên dòng sông Hương êm đềm.Trong thuyền có đủ loại nhạc cụ:đàn tranh,đàn nguyệt,đàn tì bà,....Các ca công thìăn vẩn tang phục truền thống.Âm thanh ca Huế bừng lên lúc thì du dương,lúc lại trầm bổng réo rắt thật xao động lòng người.Đến với ca Huế là đến với một nét vhóa đặc trưng của riêng Huế .Vì vậy ca Huế cần đc giữ gìn và phát huy.Vt đoạn văn diễn dịch khoảng 8 câu nêu cảm nhận của e về nguồn gốc, sự phong phú và làn điệu và sâu sắc về nội dung của cả Huế. Trong đoạn văn có sử dụng câu chứa dấu chấm lửng
1)Qua bút kí Ca Huế trên sông Hương , trình bày cảm nhận của em về cố đô Huế, những làn điệu ca Huế và những con người tài ha xứ Huế.