Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Mạc Hà
Xem chi tiết
M r . V ô D a n h
4 tháng 8 2021 lúc 15:24

Đoạn vănh hả bạn

Mạc Hà
4 tháng 8 2021 lúc 15:27

đOẠN Văn Ạ

M r . V ô D a n h
4 tháng 8 2021 lúc 15:28

Tham khảo:

phụ mẫu trong văn bản Sống chết mặc bay - mẫu 1

Quan phụ mẫu là người quản lí, chăm lo cho cuộc sống của những người nông dân, ngay chính cái tên "phụ mẫu" đã nói lên được vai trò, trách nhiệm to lớn ấy. Tuy nhiên, trong "Sống chết mặc bay", thái độ và hành động của những viên quan phụ mẫu lại mang đến cho độc giả những cảm nhận vô cùng khác biệt. Đó không phải những vị quan biết chăm lo cho nhân dân mà là những kẻ máu lạnh, tàn nhẫn đến đáng sợ. Trước nguy cơ vỡ đê, khi nhân dân đang phải cong mình chống lũ thì những kẻ tự xưng là cha mẹ của nhân dân lại chìm đắm trong thú vui bài bạc. Thậm chí, khi có người bẩm báo về tình trạng đê điều khẩn cấp, chúng không những không quan tâm mà còn lớn tiếng chửi bới, đe dọa "Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng , thời ông bỏ tù .....! Có biết không?". Có thể nói Sống chết mặc bay đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực về nỗi khổ cực của người dân nghèo cũng như bộ mặt tàn nhẫn, vô lương tâm của giai cấp thống trị.

Nguyễn thị hồng nhung
Xem chi tiết
Bùi Minh Anh
25 tháng 4 2022 lúc 17:01

Câu 1: Nhan đề "Sống chết mặc bay": Lấy từ một phần câu tục ngữ "Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi" Câu 2: Bạn cố gắng làm dựa theo ý chính này nhaa: - Nhận xét chung về hình ảnh quan phụ mẫu + những dẫn chứng: câu văn miêu tả hình ảnh quan - Nhận xét chung về những hành động, h.ảnh đó - Nêu những mặt đối lập giữa h.ảnh viên quan PM và h.ảnh lầm than của nhân dân: Sung sướng >< Cảnh lầm than, khổ đau....

Trang Dinh
Xem chi tiết
ßσss™|๖ۣۜHắc-chan|
Xem chi tiết
nguyễn minh ngọc
20 tháng 3 2019 lúc 21:01

Bài làm :

Trong bài " Sống chết mặc bay " của Phạm Duy Tôn , có rất nhiều những chi tiết vô cùng kì thú và độc đáo . Nó đã tạo lên sức hút đối với người đọc cũng như với người nghe . Nhưng riêng đối với em , thứ để lại ấn tượng nhất đó chính là tên quan phụ mẫu . Nó khiến cho em cảm thấy rõ được bộ mặt thật của những tên nhà giàu trong xã hội phong kiến đương thời.

Đầu tiên ; tính cách tham lam , ham sông của tên quan phụ mẫu đã được bài văn khắc họa rất rõ nét . Để che lấp đi trách nhiệm cai qaurn tính mạng của nhân dân , tên quan đã tức giận và đuổi cổ , dọa dẫm người đến báo là có lũ quét xảy ra . Trước khi túm cổ ra ngoài , tên quan còn dọa dẫm , quát mắng . Trong lời quát mắng , chửi rủa đó , tên quan đã nói lên lòng thản nhiên , vô trách nhiệm đối với người dân . 

Không chỉ dừng lại như vậy ,sau khi quát mắng và đuổi cổ người báo tin , tên quan còn vẫn giữ tâm trạng thảnh thôi , ung dung và không lo lắng gì hết . Và khi đê vỡ , đó cũng chính là lúc quan thắng ván bài to nhất . Trong sự an toàn , không ảnh hưởng gì đến tính mạng thì ngoài kia biết bao nhiêu người dân đã chìm trong biển nước . Sự vô trách nhiệm của tên quan , bọn nhà giàu " ham sống sợ chết " đã khiến cho hàng trăm , hàng nghìn tính mạng , tài sản và cuộc sống của người dân ngập hết trong biển nước . Lòng thản dung  ,thảnh thơi đặt tính mạng " ngàn cân treo sợi tóc " của người dân được tên quan coi như một chuyện bình thường , thản nhiên , không có gì là cần quan tâm cũng như chú ý đến . 

Từ trên , nó đã khiến ta thấy được bộ mặt tàn ác , vô trách nhiệm đối với người dân của tên quan . Tố cáo những người cầm quyền mà không biết quan tâm , chú ý đến đời sống của người dân . Những kẻ cầm quyền đó không nên đáng có , nó chỉ làm cho xã hội ngày càng lạc hậu và không thể nào phát triển được .

Qua đó , ta thêm hiểu biết , thấm thía về những người giàu mà không quan tâm đến người dân .Lòng lang dạ thú đã khiến cho tên quan trở nên không quan tâm , quyền hành đã khiến cho những kẻ đó mù quáng , không có trách nhiệm đối với đời sống của người dân 

Ngân Thương
Xem chi tiết
Thu Hằng
4 tháng 5 2022 lúc 21:20

tk

Viên quan phụ mẫu trong văn bản Sống chết mặc bay là một viên quan xấu xa và độc ác. Hắn ta mang danh là quan cha quan mẹ của nhân dân nhưng lại hành xử không xứng đáng với danh hiệu đó dù chỉ một chút. Trong khi nhân dân phải ngụp lặn trong màn mưa, nước lũ thì hắn lại thích chí ngồi trên đình cao mà hút thuốc phiện, uống chè yến, đánh tổ tôm. Trong khi người dân đau khổ, tuyệt vọng vì phải chịu mất trắng tất cả khi đê vỡ, thì hắn lại tập trung vui vẻ tận hưởng ván tổ tôm sắp ù. Tột đỉnh của sự căm phẫn, là tiếng gào thét đau đớn của người dân khi cơn lũ cuốn trôi tất cả cũng bị tiếng hét ù sung sướng của viên quan phụ mẫu. Biện pháp tương phản rõ rệt đã làm bật lên được lòng dạ độc ác, bạc bẽo đến đáng sợ của tên quan phụ mẫu kia. Qua đó, tác giả lên án và tố cáo mạnh mẽ những kẻ làm quan lại chỉ biết hưởng lạc mà không biết lo cho dân. Hình mẫu tên quan phụ mẫu độc ác trong truyện Sống chết mặc bay chính là tiêu biểu cho hằng hà những tên quan xấu xa như vậy trong xã hội hiện thực. Thật đáng buồn thay!

Lã Giang
4 tháng 5 2022 lúc 21:22

Qua tác phẩm Sống chết mặc bay thì dường như Phạm Duy Tốn đã khác họa thành công và rõ nét nhất thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu, xây dựng chân thật nhất một tên quan"lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi những con dân của mình đang "chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu - người phải chăm lo việc này lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng của con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật đúng là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói: "Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng, thời ông bỏ tù …..! Có biết không?..." rồi đuổi ra. Thật đúng là một kẻ vô lương tâm, độc ác! Phải nói rằng, tác phẩm Sống chết mặc bay chính là một tác phẩm lên án cái xã hội phong kiến thối nát một cách triệt để nhất.

 

Nguyễn Trí Thành
Xem chi tiết
Huỳnh Kim Ngân
20 tháng 4 2022 lúc 10:30

bạn tham khảo nha

Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của ông là một trong những thành tựu của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “khúc đê làng X, thuộc phủ X có hai, ba đoạn nước đã rỉ ra ngoài”. Trong khi nước sông Nhị Hà cứ dâng lên cao, nên có nguy cơ vỡ đê. Bên ngoài chống dội lên từng hồi, hàng trăm người vật lộn với thiên nhiên từ chiều đến gần một giờ đêm để bảo vệ con đê. Trời thì cứ mưa tầm tã không ngớt, nước sông cứ cuồn cuộn dâng cao, sức người như đã kiệt, thế mà trong đình, đèn thắp sáng trưng, quan ngồi chễm chệ uy nghi. Quân lính đứng hầu cạnh nào gãi, nào quạt, nào điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường để trong khay khảm khói nghi ngút. Quanh sập, có đủ mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, chánh tổng sở tại. Tất cả đang tụ họp để vui chơi tổ tôm. Cảnh tượng này hoàn toàn đối lập với cảnh ngoài đê trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê.

Rõ ràng qua hai cảnh được dựng lên ta thấy rằng đây là một viên quan vô trách nhiệm trước sự sống chết của hàng trăm con người. Mưa bão và sinh mạng hàng ngàn con dân không bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn im lặng, chẳng có chút không khí vỡ đê, đắp đê nào cả chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn…” Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…

Qua truyện ngắn “Sống chết mặc bay”, tác giả thêm đồng cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của người nông dân trong xã hội cũ. Cũng như hiểu được bộ mặt thật của bọn tham tham quan mà xã hội thời nào cũng cần phải thanh lọc. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” có giá trị hiện thực thời đại sâu sắc.

chúc bạn học tốt nha
Ngọc Diệp
Xem chi tiết
Minh Nhân
16 tháng 4 2021 lúc 20:28

Em tham khảo nhé !

Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.

Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.

Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.

Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.

Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.

Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!

Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.

Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.

Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn, mở đầu cho lối văn học hiện thực hơi hướng phương Tây của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong vào tháng 12 năm 1918, điển cho một lối văn mới, gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả lúc bấy giờ bởi những chi tiết đắt giá và hình thức thể hiện mới mẻ, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, phản ánh rõ nét nỗi khốn khổ, tuyệt vọng của người nông dân khi đối mặt với thiên tai, nêu bật được sự vô nhân đạo, tàn ác, lòng lang dạ thú của những tên quan phụ mẫu trong cảnh an nhàn, vui hưởng lạc thú. Trong đó Phạm Duy Tốn đã cất công gây dựng được hình tượng một tên quan phụ mẫu với những chi tiết đáng giá, vừa thể hiện thái độ căm tức, tố cáo, lại cũng là trào phúng, châm biếm một cách mạnh mẽ những kẻ ngồi trên ăn trước này.

Sống chết mặc bay có cách mở đầu hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm văn học truyền thống, khởi đầu Phạm Duy Tốn đã lập tức tái hiện lại cảnh hộ đê khốn khổ của người dân làng X, phủ X trên khúc đê bao quanh sông Nhị Hà, nay gọi là sông Hồng. Khung cảnh được tái diễn một cách sinh động, không khí vô cùng khẩn trương gấp gáp với những câu vào thẳng bối cảnh truyện "Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....". Từ đó mở khung cảnh thiên tai bão lũ đầy nguy cấp, còn dân làng thì đang khốn khổ dùng hết mọi sức lực để mong cứu cho được khúc đê sắp vỡ, mà trên lưng họ lúc bấy giờ là gánh nặng sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Tình thế ấy quả thực là ngàn cân treo sợi tóc, khiến lòng người hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng vô cùng với thế nước ngày một dâng cao chỉ trực sẽ nuốt trôi cả ngôi làng trước mắt. Những lời bình ngắn, những câu cảm thán đầy xót xa, ngao ngán của tác giả "Tình cảnh trông thật thảm hại" ; "Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê nay hỏng mất", lại càng làm nổi bật cái tình cảnh khốn khổ, bất lực, mỏi mệt và tuyệt vọng của dân làng, trước thiên tai dữ dội.

Việc vừa vào truyện đã nêu nổi bật lên cảnh hộ đê đầy thảm hại của người nông dân của Nguyễn Duy Tốn không chỉ có giá trị phản ánh sự dữ dội của thiên tai và nỗi vất vả, bất lực của người nông dân trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc, mà nó còn đóng vai trò là bước bẹm là cái nền tương phản làm nổi bật lên sự tàn ác, vô nhân đạo, sự khốn nạn của tên quan phụ mẫu. Mang tiếng là quan phụ mẫu đến để trông nom, đốc thúc nhân dân bảo vệ đê điều, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân sao cho xứng với hai chữ "phụ mẫu", thế nhưng thực tế rằng lại tận hưởng cuộc sống thư thái trên chính nỗi đau của nhân dân, "hộ đê" bằng cách đánh bài tổ tôm. Hình tượng nhân vật quan phụ mẫu đã được Phạm Duy Tốn khắc họa một cách rõ nét thông qua việc miêu tả cuộc sống phong phú, giàu sang khác hẳn với sự vật vã, tuyệt vọng và khốn khổ của dân làng X. Trong khi toàn thể dân làng "hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột", thì trái lại tên quan phụ mẫu cho chúng ta hình ảnh, hắn đang ở trong một ngôi đình to lớn, ấm áp, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, cách chỗ đê sắp vỡ chừng bốn năm trăm thước để đánh bài tổ tôm. Tư thế vô cùng nhàn hạ, thoải mái dường như trận mưa lớn, cùng những tiếng hò dô, bảo hộ đê của muôn nghìn người dân chẳng lọt vào tai hắn một đến một tiếng "tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên hầu quỳ dưới mà gãi", lại có cả tên lính lệ đứng bên liên tục phe phẩy quạt, tên trực điếu đóm cho, trông chẳng khác nào một tên vương giả đang nghỉ mát. Thêm nữa trong khi hàng trăm con người ướt như chuột lột lo đắp đê, chống lũ trong khốn khổ, có lẽ chẳng có thời gian mà cơm nước, nghỉ ngơi thì quan phụ mẫu lại sung sướng lắm nào cháo yến hấp đường phèn, rồi trầu vàng, cau đậu, rễ tía, ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ngoáy tai,... ôi chao cuộc sống làm gì có thể đủ đầy và vương giả hơn thế nữa. Thú thực được như thế, thì bao nhiêu mưa gió ngoài kia lại chỉ càng làm cho cái thú thưởng thức nó thêm phần tuyệt hảo, đúng với phong thái "hộ đê" của riêng quan phụ mẫu. Rồi cái cảnh lính lệ, người ở, các thầy đề, thầy thông nhì, thầy đội nhất, thầy chánh tổng sở tại,... người đi lại nhịp nhàng, cẩn thận, kẻ ngồi xếp bằng trật tự, ung dung, dáng vẻ tôn hiển, nghiêm túc cùng với quan phụ mẫu bệ vệ ngồi trên, thiết nghĩ ồ có lẽ các quan đang suy xét nghĩ kế hộ đê. Ôi, thế nhưng trò đời với cái thói ngược ngạo, đâu có cho ta được viễn cảnh thuận tình ấy, hóa ra các ngài cũng đang "hộ đê" đấy nhưng là hộ đê bằng những con bài tổ tôm, được nâng lên hạ xuống một cách thích chí, say mê, chứ các quan nào có biết gì đến nỗi khổ tâm của con dân ngoài kia đâu.

Sự nhẫn tâm, khốn nạn của tên quan phụ mẫu này nếu chỉ dựa vào cái cảnh hắn sống sung sướng thì có lẽ vẫn chưa đủ, mà thêm vào đó tác giả còn cho nhân vật này những lời thoại rất đắt bộc lộ một cách rõ nét bản chất lòng lang dạ sói của hắn. Khi có tên hầu vào báo "Bẩm dễ có khi đê vỡ", những tưởng quan sẽ giật mình sốt sắng, bỏ vội chiếu bài dở để đi hộ đê cho kịp, nhưng không, quan phụ mẫu ở đây không làm như vậy, ngài gắt "Mặc kệ". Than ôi, thật đúng cho cái tiêu đề sống chết mặc bay thật, những mưa to gió lớn, những tiếng khóc, tiếng kêu, người cuốc đất, người khiêng đá đắp đê, đấu lại nước lũ đang chực chờ nuốt chửng cả ngôi làng bé nhỏ cũng chẳng thể hồi hộp, gay cấn bằng những con bài đen, bài đỏ, những nước bài cao thấp phân tranh trên chiếu bạc của quan phụ mẫu. Ngài bận nghĩ cho ra một nước bài cao, đánh cho ra trận thông ù, để nhận muôn lời nịnh hót của chúng quan phía dưới, chứ can gì nỗi sống chết của nhân dân, can gì cảnh ruộng đồng, ngập lụt, trâu bò trôi sông đâu. Trong khi mọi người run sợ vì những tiếng kêu gào thảm thiết của người, chó, gà, lợn, trâu, bò ầm ĩ thì riêng quan vẫn cứ điềm nhiên một nỗi như không, đúng là phong thái của một vị quan phụ mẫu, giá như cái phong thái ấy nó phát huy trong lúc ngài chỉ huy nhân dân rào đắp con đê sắp vỡ thì nó lại phước phần quá.

Nếu như lúc đê sắp vỡ quan chỉ gắt mặc kệ, vì nghĩ còn lâu đê mới vỡ thì đến khi đê vỡ thật, thái độ của quan mới lại khiến người ta không khỏi căm tức "Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy". Quan có giận vì lo sợ đê vỡ hay hoảng hồn vì tình thế nguy cấp, vì tính mạng của nhân dân đâu, quan tức, quan gắt chỉ bởi cái tên nhà quê nhếch nhác chết tiệt kia dám vô phép vô tắc chạy xồng xộc vào nơi uy nghiêm, bề thế nơi mà quan đang bận đánh bài tổ tôm sung sướng mà thôi. Rồi thì bây giờ, đê vỡ hay không vỡ vốn dĩ quan chẳng thèm quan tâm, quan sướng phần quan, còn dân bay chết trôi, chết nổi, tan đàn xẻ nghé dường như chẳng liên quan gì đến việc quan vừa ù xong ván bài nữa. Đắc ý lắm, mà cũng độc ác, nhẫn tâm lắm!

Sống chết mặc bay là một truyện ngắn hiện đại đầu đầu mang những giá trị hiện thực sâu sắc, tố cáo, lên án chế độ phong kiến lạc hậu, cũ nát, cùng lũ quan trên độc ác, tàn nhẫn, giẫm đạp lên cái khốn cùng của nhân dân để ăn chơi xa xỉ, vui hưởng lạc thú. Đồng thời tác phẩm còn là tiếng lòng thương cảm, xót xa cho số phận người nông dân thấp cổ bé họng dưới chế độ cũ, cuộc sống khổ cực lầm than, thiên tai lũ lụt ập đến liên miên, kêu trời trời không thấu, kêu đất đất cũng chịu làm thinh, đắng cay muôn vàn không kể hết.

minh nguyet
16 tháng 4 2021 lúc 20:28

Tham khảo nha em:

Qua tác phẩm Sống chết mặc bay thì dường như Phạm Duy Tốn đã khác họa thành công và rõ nét nhất thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu, xây dựng chân thật nhất một tên quan"lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi những con dân của mình đang "chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu - người phải chăm lo việc này lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng của con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật đúng là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói: "Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng, thời ông bỏ tù …..! Có biết không?..." rồi đuổi ra. Thật đúng là một kẻ vô lương tâm, độc ác! Phải nói rằng, tác phẩm Sống chết mặc bay chính là một tác phẩm lên án cái xã hội phong kiến thối nát một cách triệt để nhất.

 

 



 

Dương Hoàng Trúc Tiên
Xem chi tiết
Dương Hoàng Trúc Tiên
27 tháng 1 2022 lúc 20:02

help meeeeeeeeeeeeeee mà!

︵✰Ah
27 tháng 1 2022 lúc 20:09

Tham Khảo 

Khi đọc truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, người đọc sẽ cảm thấy vô cùng "ấn tượng" với hình ảnh viên quan phủ đi hộ đê. Trước tình cảnh thảm hại của người dân khi đang hộ đê, tên quan phủ vẫn “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điều đóm”. Sự đối lập giữa tình cảnh của nhân dân và quan phụ mẫu khiến người đọc phải cảm thấy căm tức. Chỉ bằng vài nét phác họa khung cảnh đó, dáng điệu đó, ta đã có thể đoán được cuộc sống phong lưu, phú quý và thảnh thơi của quan phủ trong khi làm nhiệm vụ hộ đê. Thêm nữa, ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống vôi chạm, ngoáy tai, lý thuốc, quản bút, tăm bông…”. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng: “Điếu, mày!”. Có khi thì là với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”. Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ: “Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? Đuổi cổ nó ra!”. Như vậy, quan phụ mẫu hiện lên rõ nét trong tác phẩm không chỉ bộc lộ thái độ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn phơi bày bản chất tàn ác, bất nhân, “lòng lang dạ thú”.

Hà Võ Thị Thu
Xem chi tiết
❤Cô nàng ngốc ❤
21 tháng 4 2018 lúc 14:39

a. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần chứng minh.
b. Thân bài: Làm rõ được các ý sau:
* Quan vô trách nhiệm:
- Đê sắp vỡ. Cảnh ngoài đê vô cùng nguy ngập. Thiên tai đang từng lúc giáng xuống, đe doạ cuộc sống của người dân….
- Quan không đốc thúc hộ đê mà “cùng với đám nha lại vui cuộc tổ tôm ở trong đình”….
- Đi hộ đê mà quan “uy nghi chễm chện ngồi”, trong đình đèn thắp sáp choang, kẻ hầu người hạ, đồ dùng sang trọng “ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà…”, ăn của ngon vật lạ “yến hấp đường phèn…”
* Quan hống hách:
- Bắt bọn người nhà, lính hầu quan, đứa thì gãi, đứa thì quạt, đứa thì chực hầu điếu đóm…
- Bắt bọn tay chân hầu bài “không ai dám to tiếng”.
- Khi có người bẩm báo việc đê, quan gắt, quát, sai lính đuổi đi.
- Nghe tin đê vỡ, đoạ cách cổ, bỏ tù…
* Quan mải mê bài bạc, bỏ mặc đê vỡ làm cho dân chúng khổ:
- Cuộc chơi bài tổ tôm của quan diễn ra rất trang nghiêm, nhàn nhã trong khi quan đang đi hộ đê.
- Quan đang đi hộ đê, mà đê thì sắp vỡ, việc mà tâm trí của quan dồn cả vào là ván bài tổ tôm “Ngài mà còn dở ván bài hoặc chưa hết hội thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi ngày cũng thấy kệ”.
- Mưa mỗi lúc một tăng, nguy cơ đê vỡ mỗi lúc một đến gần “mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít” quan vẫn coi như không biết gì, vẫn thản nhiên ung dung đánh bài “đê vỡ mặc kệ, nước sống dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, “Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ…”
- Có người bẩm “có khi đê vỡ”, quan gắt: “Mặc kệ!”.Quan ù thông, xơi yến, mắt trông dĩa nọc….
- Mọi người đều giật nảy mình khi nghe tiếng kêu trời dậy đất ngoài xa, chỉ quan là vẫn điềm nhiên.
- Có tin đê vỡ, quan vẫn thờ ơ, quát nạt bọn chân tay rồi lại tiếp tục đánh bài cho đến lúc “ù! Thông tôm, chi chi nảy…”
- Khi quan ù ván bài to với niềm vui sướng cực độ thì “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng , xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”. …
=> Tác giả đã sử dụng thủ pháp tăng cấp, đối lập tương phản để vạch trần thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm, thói hống hách của tên quan phụ mẫu trong khi đi hộ đê, bộc lộ niềm xót xa, thương cảm trước cảnh muôn sầu nghìn thảm của nhân dân…
c. Kết bài:
Khẳng định tên quan phụ mẫu là kẻ lòng lang dạ thú, đáng bị lên án

❤Cô nàng ngốc ❤
21 tháng 4 2018 lúc 14:39

Phạm Duy Tốn là một trong những cây bút mở đầu cho thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó có tác phẩm “ Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã thể hiện rõ nét nỗi khổ của người dân trong thời kỳ xã hội thối nát, bọn quan lại cường hào thì ăn chơi phè phỡn, không quan tâm tới vận mệnh của người dân.

Tác phẩm đã đem lại sự tò mò của người đọc ở ngay tiêu đề. Nhan đề bắt nguồn từ một câu tục ngữ nổi tiếng và rất quen thuộc của dân gian ta “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ phê phán, lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén, lo cho lợi riêng mình trong khi đó lại thản nhiên, lãnh đạm, thờ ơ thậm chí vô lương tâm trước tính mạng của những người con người mà mình phải có trách nhiệm. Tác giả chỉ chọn phần đầu của câu tục ngữ mà không chọn cả câu bởi ông muốn tạo ra sự tò mò, hấp dẫn người đọc. Bởi trong câu chuyện này thì chỉ có phần đầu mới phù hợp với nội dung, cốt truyện. Và như ý kiến nhận xét trên đây đã đề cập, “Sống chết mặc bay” không phải để “tiền thầy bỏ túi” mà để các quan thoái thác trách nhiệm, “tự do” với cuộc ăn chơi của mình.

Xuyên suốt tác phẩm, tác giả đã lấy bối cảnh là một cuộc hộ đê của dân làng XX… giữa mùa nước dâng cao. Không gian tác phẩm chỉ gồm hai địa điểm: đê và đình. Ngoài đê, dân tình hối hả, cực nhọc hộ đê. Trong đình, quan phụ mẫu và nha lại chơi đánh bài tổ tôm. Không gian truyện quả thực rất hẹp nhưng hai đối tượng xã hội mà tác phẩm dựng lên lại là hai giai cấp tiêu biểu, vốn có những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội đương thời: nông dân và quan lại phong kiến. Và qua công việc hộ đê trong phạm vi một làng nhỏ, tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”.

Trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, trời tối đen như mực, nước sông Nhị Hà đang dâng lên, thế mà hàng trăm con người đang phải đội đất, vác tre, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió để cố giữ lấy đê. Ngược lại hoàn toàn với cảnh đó cách đó vài trăm thước, trong đình đèn điện sáng trưng nhộn nhịp người đi lại, “quan phụ mẫu” uy nghi chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài: “Một người quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuộc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để đan xen hai hoàn cảnh: sự khốn khổ, điêu đứng của người dân và sự ung dung, an nhàn vô trách nhiệm của tên quan “phụ mẫu”.

Sự tài tình khéo léo trong ngòi bút của tác giả thể hiện ở chỗ, hai hình ảnh hoàn toàn đối ngược với nhau tạo nên hai nghịch cảnh. Chính điều này càng gây ra nỗi căm phẫn trong lòng người đọc. Trời càng lúc càng mưa to, đê càng lúc càng sụt lở nhiều, dân càng lúc càng đuối sức. Thì ở trong đình, ván bài của quan càng lúc càng hồi hộp, càng gần đến hồi “gay cấn”. Kết hợp với nghệ thuật tương phản là thủ pháp tăng cấp, Phạm Duy Tốn ép không gian truyện đến nghẹt thở. Cao trào của tác phẩm dâng lên khi có người nhà quê chạy vào run rẩy báo: “Đê vỡ mất rồi”, quan phụ mẫu không những không lo lắng mà còn lớn tiếng quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày” rồi tiếp tục thản nhiên đánh bài!

Với ngòi bút sắc sảo khi nhà văn miêu tả cảnh dân – quan, ta thấy cuộc sống nhân dân khổ đến cùng cực, sự sống mong manh, bè lũ quan lại tiêu biểu là tên quan phụ mẫu thì vô trách nhiệm và lòng lang dạ thú đến tận cùng. Hiện thực ấy được thu nhỏ qua bức tranh hộ đê vô cùng gian khổ. Nhà văn cảm thông chia sẻ với cuộc sống thê thảm của người dân trong cảnh hộ đê và cảnh điêu linh của dân sau khi đê vỡ. Đó là sự tố cáo phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của bè lũ quan lại. Thái độ vô trách nhiệm ấy đã trở thành một tội ác đối với dân. Trong xã hội lúc bấy giờ, không phải chỉ có một mình tên quan phụ mẫu sống vô trách nhiệm với dân mà còn rất nhiều tên quan cũng thờ ơ với số phận của nhân dân giống tên quan phụ mẫu này. Xây dựng hình ảnh một tên quan phụ mẫu nhưng tác giả đã thay lời nhân dân tố cáo những tên quan lại vô lại làm hại dân hại nước đang tồn tại trong xã hội mà tác giả đang sống.

“Xung quanh một không gian hẹp nhưng “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lại đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”. Ý kiến nhận xét đó đã khái quát được thành công về mặt nội dung tư tưởng của truyện ngắn hiện đại đầu tiên trong nền văn học nước nhà.

Trong cuộc sống xã hội phong kiến xưa có rất nhiều những kẻ vô lương tâm, lòng lang dạ thú như tên quan phụ mẫu. Trong xã hội nay thì khác, nhà nước đã rất chú trọng đến đời sống nhân dân nhưng vẫn không ít kẻ vì lợi riêng mà mặc cho số phận, sinh mang của nhân dân. Và bởi vậy, có thể khẳng định rằng, giá trị hiện thực của truyện ngắn này vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa tới ngày nay.

Có thể nói tác phẩm Sống chết mặc bay là lời tố cáo của nhân dân với xã hội phong kiến thối nát, tạo điều kiện cho những kẻ mất nhân tính tồn tại và gieo rắc nỗi khổ cho nhân dân. Tác giả đã thương cảm cho số phận của nhân dân phải chịu nhiều áp bức bóc lột.

Nguyễn Linh
21 tháng 4 2018 lúc 13:29

Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông là một trong những thành tựu của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai. Truyện được viết vào tháng 7 - 1928, được đăng tải trên báo Nam Phong số 18 tháng 12 năm 1928.

Khúc đê làng X, thuộc phủ X có hai, ba đoạn nước đã rỉ ra ngoài. Trong khi nước sông Nhị Hà cứ dâng lên cao, nên có nguy cơ vỡ đê. Bên ngoài trống dội lên từng hồi, hàng trăm người vật lộn với thiên nhiên từ chiều đến gần một giờ đêm để bảo vệ con đê. Trời thì cứ mưa tầm tã không ngớt, nước sông cứ cuồn cuộn dâng cao, sức người như đã kiệt, thế mà trong đình, đèn thắp sáng trưng, quan ngồi chễm chệ uy nghi. Quân lính đứng hầu cạnh nào gãi, nào quạt, nào điếu đóm...Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường để trong khay khảm khói nghi ngút. Quanh sập, có đủ mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, chánh tổng sở tại. Tất cả đang tụ họp để vui chơi tổ tôm. Cảnh tượng này hoàn toàn đối lập với cảnh ngoài đê trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê.

Rõ ràng qua hai cảnh được dựng lên ta thấy rằng đây là một viên quan vô trách nhiệm trước sự sống chết của hàng trăm con người. Hắn chỉ biết hưởng thụ sống sung sướng cho bản thân.

Ngoài đê, dân chúng đang từng giờ từng phút đối mặt với nguy hiểm của nước lũ mạnh và vô cùng hung dữ. Người đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào kè, bì bõm dưới bùn lầy, mươi gió lướt thướt, ướt như chuột lột. Vậy mà Quan phụ mẫu hắn uy nghi, chễm chệ trong đình. Bát sách, thất văn... lúc mau, lúc khoan thật nhịp nhàng. Ngoài kia đàn sâu lũ kiến đang vùi mình dưới mưa cũng không bằng trong đình đang nước bài cao thấp. Quan như bị ma lực hút hồn vào một trăm hai mươi lá bài đen đỏ, mà quên đi tính mạng dân lành, thật đáng thương tâm. Quanh năm quan đâu có biết đến đời sống của dân chúng và công việc mình phụ trách, dưới cái ghế của quan có bao kẻ xu nịnh ôm chân vâng dạ.

Thậm chí chúng còn tranh nhau phô bài để quan lớn rõ rằng: Mình vào được nhưng không dám cố ăn kìm. Rằng: mình có đôi mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng đã chìm nổi cho quan ù thông” (thắng liên tiếp 2 ván). Như vậy thì quan làm sao nhớ đến nhiệm vụ của mình được. Hơn nữa trong dinh thì cao, đèn thắp sáng quan làm sao mà dám xuống chỗ sùng sũng bùn lầy đêm tối kia. Cái bọn mà ta gọi là điếu đóm, lau nhau ấy đã rất khéo léo.

Rồi lại ván bài tiếp, quan vừa xơi xong bát yến, vuốt râu rung đùi. Hắn chỉ chăm chăm nhìn vào đĩa đựng bài chờ bốc trúng quân bài để hắn hạ. Bỗng có người khẽ bảo dễ có khi đê vỡ, quan gắt “mặc kệ”. Bên ngoài tiếng người gào thét ầm ĩ, tiếng gà trâu kêu vang tứ phía, một người nhà quê ướt sùng hộc tốc chạy đến bẩm “đê vỡ mất rồi”. Và rồi như không cần suy nghĩ, quan gắt, thoái thác trách nhiệm “ông sẽ cách cổ, bỏ tù”... rồi lại tiếp tục ván bài đang dở. Quan lớn mặc kệ cho đê vỡ, dân chúng chạy loạn, những sinh linh bé nhỏ kia sẽ bị những cơn lũ cuốn đi. Nào là phụ mẫu chi dân, nào là lo cho dân, thương dân. Bộ mặt của bọn quan lại phong kiến hiện rõ hơn bao giờ hết.

Quan có biết đâu sau ván bài ù là lúc nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, cửa nhà, dân chúng kẻ sống thì không có chỗ ở, kẻ chết thì mất xác... Than ôi! Dân còn biết trông cậy vào ai? Truyện ngắn làm ta liên tưởng đến “Đồng hào có ma” của Nguyễn Công Hoan. ***** nuôi là kẻ mất trộm, lên trình quan việc mất trộm, nó không những không trình báo được việc mất trộm còn bị quan ngài Huyện Hinh ăn chặn đồng hào đôi sáng loáng bằng thủ đoạn cực kỳ bẩn thỉu. Con ma Huyện Hinh ăn những đồng tiền xương máu của dân một cách trắng trợn. Còn ở đây, vị quan phụ mẫu thương dân đã bỏ mặc đê vỡ và chối bỏ trách nhiệm.

Sống chết mặc bay - tên của truyện ngắn đã thể hiện sâu sắc bộ mặt tên Quan phụ mẫu vô trách nhiệm với công việc cửa mình, mặc cho dân chúng đối mặt với cái chết còn hắn thì chỉ lo không ù được ván bài, ngài cứ sống chết mặc bay.

Bằng nghệ thuật tương phản, tác giả vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm, vô nhân đạo của bọn quan lại, chúng coi thường tính mạng nhân dân. Chúng chỉ lo ăn chơi cờ bạc bóc lột dân đen đến tận xương tuỷ.

Qua truyện ngắn này giúp ta cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của người nông dân trong xã hội cũ. Đồng thời khiến ta càng thêm căm ghét và kinh tởm bọn quan lại bỉ ổi vô lương. Chúng là lũ sâu mọt, tham quan mà xã hội thời nào cũng phải thanh lọc. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” có giá trị hiện thực thời đại sâu sắc.