Tôi được sinh ra trong một dân tộc giàu truyền thống yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Từ bao đời, bao thế hệ đều có những người anh hùng xả thân bảo vệ non sông, độc lập của dân tộc. Là một người con của quê hương Việt Nam nên tôi cũng mang trong mình tình yêu, sự hiên ngang, bất khuất không chịu nhường bước trước kẻ thù. Khi giặc Ân kéo vào nước ta, trước sự ủng hộ, động viên của bố mẹ, hàng xóm và con người Việt Nam thì tôi đã lên đường đánh giặc, đánh đuổi quân Ân, mang lại độc lập cho dân tộc. Và mọi người thường gọi tôi với cái tên Thánh Gióng.
So với những đứa trẻ cùng trang lứa khác thì tôi có sự khác biệt, bởi nếu những đứa trẻ khác đến ba tuổi thì có thể cười đùa và nói những câu đơn giản. Nhưng khi đến ba tuổi thì tôi lại hoàn toàn trái ngược, tôi không cười, không nói, điều này trở thành câu chuyện kì lạ truyền tai trong hàng xóm, láng giềng. Còn bố mẹ tôi cũng rất buồn phiền, lo lắng, nhưng không vì vậy mà chán ghét hay ruồng bỏ tôi, bố mẹ tôi dành trọn tình yêu, sự quan tâm để nuôi dưỡng tôi mỗi ngày. Thời đại tôi sống có nhiều biến loạn, đặc biệt lên trong số đó, chính là nạn giặc ngoại xâm.
Năm ấy, quân Ân ở Trung Hoa kéo sang xâm lược với mưu đồ thôn tính đất nước ta, cũng vì vậy mà cuộc sống của người dân trở nên vô cùng khốn khổ, chúng hoành hành ngang ngược, bóc lộc, cướp bóc tài sản của nhân dân một cách vô lí. Chúng coi thường pháp luật, hiên ngang bành trướng thế lực của mình. Trước sự hống hách của quân giặc, sự lầm than khổ sở của người dân, triều đình phong kiến đã gấp rút cử sứ giả đi khắp nơi trong nước để tìm kiếm những người tài giỏi, những con người tài trí có thể giúp nước vượt qua nạn ngoại xâm.
Khi sứ giả đi ngang qua làng, tiếng nói vang vọng khắp các ngõ ngách, nó khẩn khiết đến mức tôi vốn là một đứa trẻ không nói không cười dù đã lên ba lần đầu cất tiếng nói. Tôi còn nhớ rất rõ, câu nói đầu tiên của cuộc đời mình, đó là “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”, lúc ấy mẹ tôi rất bất ngờ, vui sướng vì đứa con của mình cuối cùng cũng có thể cất tiếng nói như bao đứa trẻ bình thường khác, nhưng cùng với đó là sự hoảng sợ, lo lắng, vì tội khi quân là tội mất đầu. Ban đầu mẹ tôi còn do dự nhưng trước sự thuyết phục da diết của tôi thì cuối cùng mẹ cũng ra ngoài mời sứ giả vào
Khi sứ giả vào nhìn thấy tôi cũng bất ngờ không kém, bởi có lẽ người trong tưởng tượng của vị sứ giả này hoàn toàn trái ngược, không phải một người anh hùng cao lớn mà lại là một đứa trẻ. Nhưng không để trạng thái hoài nghi, đánh giá ấy diễn ra lâu, tôi đã chủ động yêu cầu sứ giả về tâu với nhà vua làm cho tôi mộ bộ áo giáp sắt, một chiếc mũ sắt, một cây gậy sắt, một con ngựa sắt, ba ngày sau tôi sẽ lên đường đánh giặc. Sau đó dù vẫn còn có những nghi ngờ nhưng việc nước gấp rút, vi sứ giả nọ cũng nhanh chóng trở về kinh thành tâu vua.
Từ ngày quyết định lên đường đánh giặc cứu nước, tôi ăn bao nhiêu cũng không đủ no, uống bao nhiêu cũng không hết khát, người lớn nhanh như thổi, nhưng cơm trong nhà tôi cũng vì vậy mà nhanh chóng cạn kiệt. Nghe tin tôi xung phong ra trận, những người hàng xóm đã chung tay góp cơm, góp gạo nuôi lớn tôi. Điều này làm cho tôi rất cảm kích và cảm nhận được sự ấm áp của tình người, cũng vì vậy mà quyết tâm chiến thắng giặc Ân, mang lại tự do, hòa bình cho mọi người càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Đúng ngày hẹn, sứ giả mang áo giáp sắt, ngựa sắt đến cho tôi, không hề chần chừ, tôi mặc trang phục, cưỡi ngựa sắt một đường phi ra trận mặc, quyết chiến cùng giặc Ân, cuộc chiến này tôi dù đơn phương độc mã nhưng từ đầu đến cuối, người làm chủ trận địa vẫn là tôi, tôi dùng gậy sắt đánh bại những kẻ cướp nước. Trước sức mạnh phi thường, ý chí sắt đá của tôi, quân giặc hoảng sợ mà bỏ chạy toán loạn. Trong cuộc chiến bỗng nhiên cây gậy sắt bị gãy, không hề lao lung, tôi đã tiện tay nhỏ khóm tre bên đường làm vũ khí đánh giặc, cũng vì vậy mà lũ giặc bị đánh đuổi khỏi bờ cõi không còn chút dấu vết.
Sau khi chiến thắng, mặc dù muốn về chung vui cùng bố mẹ, hàng xóm nhưng tôi vốn không phải người thường, tôi là người nhà trời, được cử xuống trần gian để cứu dân cứu nước khỏi nạn ngoại xâm, khỏi ách đô hộ của quân xâm lược phương Bắc. Vì vậy mà ngay khi hoàn thành trong nhiệm vụ của mình tôi đã cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn cùng ngựa bay lên trời.
Được trải nghiệm cuộc sống tuy nghèo đói nhưng ấm áp tình cảm, dù gian khó nhưng vẫn ngoan cường, đoàn kết của người dân là một trong những dấu ấn khó quên trong cuộc đời của tôi. Hoàn thành nhiệm vụ cứu dân cứu nước lại là một trong những chiến công tôi cảm thấy vui sướng và tự hào nhất.