Phân tích những diễn biến của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hội nghị nhận định, cách mạng Việt Nam lúc này phải là cách mạng giải phóng dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ đó, công việc cốt yếu của Đảng lúc này là phải liên minh tất cả các lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật. Để hoàn thành nhiệm vụ giải pháp dân tộc, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Khẩu hiệu chính của Việt Minh là: Phản Pháp, kháng Nhật, liên Hoa, độc lập.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Mặt trận trình bày rõ ràng đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình.
Nhờ có chính sách đúng, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của các tầng lớp nhân dân mà tổ chức và phong trào Việt Minh, phát triển nhanh chóng và lan rộng ra khắp nước.
Ngày 9/3/1945, Nhật hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Nhân sự kiện này, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17/8/1945. Đại hội nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương đề nghị, thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đại hội đã cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, một hình thức của Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, do lãnh tụ Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) làm Chủ tịch.
Chỉ trong vòng hai tuần lễ, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên phạm vi cả nước.