Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
a﴿ Nguyên nhân:
- Do chính sách thống trị tàn bạo của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Tô Định giết chết.
b﴿ Diễn biến:
- Mùa xuân năm 40 ﴾ tháng 3 dương lịch ﴿. Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ﴾ Hà Nội ﴿, nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh rồi tìm hiểu Cổ Loa, Luy Lâu.
- Tô Định hốt hoảng bỏ thành lẻn trốn về Nam Hả, quân Hán ở các quận khác bị đánh tan.
c﴿ Kết quả:
- Cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi.
Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông đảo, trong đó có phụ nữ đóng vai trò quan trọng. có chủ tướng chỉ huy là phụ nữ
Chiến tranh Hán-Việt 42-43 là tên gọi của cuộc chiến do tướng nhà Đông Hán Mã Viện chỉ huy chống lại quân nổi dậy của Hai Bà Trưng ở đất Việt năm 42-43.
Hoàn cảnhSau cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng năm 40, Tô Định bỏ chạy, phần đất thuộc bộ Giao Chỉ (gồm 4 quận Hợp Phố (tức Quảng Đông), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) tách ra khỏi lãnh thổ nhà Đông Hán, trở thành một vùng đất độc lập. Trưng Trắc và Trưng Nhị lấy đất Mê Linh làm kinh đô, phong chức tước cho những người cùng tham gia khởi nghĩa. Chính quyền của 2 bà tuy còn sơ khai nhưng cũng đã là một nhà nước độc lập, tự chủ.[1] Hai Bà đã miễn thuế cho dân 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân trong 2 năm.
Tại phương Bắc, Hán Quang Vũ Đế mới hoàn thành việc thống nhất Trung Quốc sau chiến tranh kéo dài từ cuối thời nhà Tân. Trong nước chỉ còn những cuộc nổi dậy chống đối nhỏ, vì vậy vua Hán có thời gian chú tâm đến Giao Chỉ.
Vua Hán điều binhNăm 42, Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố chuẩn bị xe thuyền, sửa đường và trữ lương đi đánh Giao Chỉ.
Vua Hán phong tướng Mã Viện đã 58 tuổi làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm Phó tướng, Đoàn Chí làm Lâu Thuyền tướng quânsang đánh đất Giao Chỉ[4]. Quân đội của nhà Hán bao gồm 8.000 quân lấy từ các quân Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, 12.000 quân lấy ở bộ Giao Chỉ.
Tổng cộng quân Hán có 2 vạn người cùng 2000 thuyền xe. Đội quân này gồm toàn người Hoa Nam, quen thuộc thủy thổ phương Nam, lại có sự chỉ huy của Mã Viện, viên tướng giàu kinh nghiệm chiến trận.
Diễn biến Trận Lãng Bạc - Cấm KhêQuân Mã Viện chia thành 2 đạo thủy bộ dự tính hội quân ở Hợp Phố để tiến đánh. Tuy nhiên khi đến Hợp Phố thì Đoàn Chí chết vì bệnh nên Mã Viện thống suất toàn quân tiến theo ven biển, ngược sông Bạch Đằng tới sông Lục Đầu rồi vào đất Giao Chỉ, đi thẳng tới Lãng Bạc.[4][5]
Quân Hán tiến đến Long Biên, Tây Vu và Lãng Bạc ở phía đông Cổ Loa. Hai Bà Trưng từ Mê Linh qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đón đánh quân Hán. Tại đây, hai bên đã giao chiến dữ dội. Quân Hán không hợp thủy thổ phương Nam, nhiều người bị chết, trong đó có Bình Lục hầu Hàn Vũ.[6]
Giao chiến lâu ngày, quân Hai Bà Trưng thiếu trang bị và kinh nghiệm, không địch nổi đạo quân thiện chiến của Mã Viện. Tháng 3 âm lịch tức tháng 4 năm 43, quân Việt bại trận. Mã Viện truyện chép: Viện chém vài nghìn đầu, bắt hàng hơn vạn người...[4][7]
Sau trận Lãng Bạc, Trưng Vương phải thu quân về giữ Cổ Loa một thời gian rồi phải lui về Mê Linh, sau đó chạy sang Cấm Khê.
Tại Cấm Khê, quân của Hai Bà tiếp tục bị đánh bại. Quân Hán chém hơn nghìn người, bắt hàng hơn 2 vạn quân khởi nghĩa.[2] Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam thì hai bà chạy đến sông Hát thì nhảy xuống sông tự sát.[5] Còn theo các sách Thống chí và Hậu Hán thư thì hai bà đều bị chém.[2] Theo sách Hậu Hán thư phần Lưu Long truyện thì Lưu Long đuổi theo bắt được Trưng Nhị còn trong Mã Viện truyện thì cho biết quân Mã Viện khi truy sát quân nổi dậy tới Cấm Khê đã chém được cả Trưng Trắc lẫn Trưng Nhị và đem đầu về Lạc Dương.[4][8] Sau khi chiến thắng, Mã Viện cho lui quân về Luy Lâu để thu phục quận thành và nghỉ ngơi.
Thời điểm Hai Bà mất được xác định chưa thống nhất. Hán thư ghi sự kiện diễn ra tháng 4 âm lịch, tức là tháng 5 dương lịch năm 43. Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Hai Bà tự vẫn vào ngày 8 tháng 3, nên về sau lấy ngày này làm ngày hội Hát Môn[9].
Sau khi Hai Bà Trưng mất thì những cuộc kháng cự của người Việt vẫn còn tiếp tục kéo dài.
Mã Viện tấn công Cửu Chân[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi chiếm lại quận Giao Chỉ, Mã Viện tiếp tục tiến vào đất Cửu Chân. Ông đem theo hơn 20.000 binh sĩ cùng hơn 2.000 lâu thuyền lớn nhỏ đi đánh tướng của Trưng Vương là Đô Dương, từ huyện Vô Công tới huyện Cư Phong, chém và bắt hơn 5.000 người[4]. Sách Thủy Kinh Chú chép: "tháng 10 năm 19 hiệu Kiến Vũ [năm 43], Mã Viện vào quận Cửu Chân ở miền Nam, đến huyện Vô Công, tướng giặc đầu hàng, lại tiến vào huyện Dư Phát. Cừ súy là Chu Bá bỏ quận mà vào rừng sâu... Mã Viện lại chia binh làm 2 đạo, 1 đạo vào huyện Vô Biên, 1 đạo đến huyện Cư Phong. Phàm tướng giặc không hàng đều bị chém đầu đến mấy trăm người. Thế là đất Cửu Chân yên..." [8]
Riêng đất Nhật Nam thì các bộ lạc ở rải rác không tham dự cuộc nổi dậy nên Mã Viện không tiến quân nữa.
Sau cuộc chiếnSau khi lực lượng kháng chiến cuối cùng của Đô Dương bị triệt hạ ở Cửu Chân, nhiều quý tộc người Việt bị giết hoặc bị bắt đi đày sang Linh Lăng, Hồ Nam có tới 300 người.[10] Chế độ Lạc tướng bị dẹp, thay thế bằng chế độ trực trị tới cấp huyện. Về sau chỉ có một số quý tộc người Việt được cử giữ chức huyện lệnh nhưng cũng không có quyền thế tập cha truyền con nối.[11]
Theo Hậu Hán thư: Viện khi đi qua chỗ nào cũng đặt quận huyện, xây thành quách, đào sông tưới ruộng để sinh lợi cho dân.[4][12] Tuy nhiên, Đào Duy Anh có bình luận thêm rằng Chúng ta không có tài liệu trực tiếp để biết thêm tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp do cuộc kinh lý của Mã Viện[12]. Mã Viện cũng tâu về triều đình nhà Hán rằng luật lệ của người Việt khác với người Hán và xin thi hành Pháp chế để ước thúc họ.[4][12] Ngoài ra Mã Viện cho rằng chế độ quận huyện trước kia lỏng lẻo, nay phải thi hành chặt chẽ hơn, bèn tâu với Hán Quang Vũ Đế chia đất Tây Vu là đất của con cháu An Dương Vương thêm 2 huyện mới là Phong Khê và Vọng Hải bởi huyện Tây Vu có 32.000 nhà mà biên giới thì cách xa huyện trị đến hơn nghìn lý[4].
Người dân Cửu Chân chỉ có một số ít biết cày bừa bằng trâu bò, phần nhiều còn làm nghề săn bắn[13]. Sau khi chiếm cứ các thành, quân Hán cũng xây thành quách để đồn trú và đặt quận huyện y như quận Giao Chỉ.
Sau khi kinh lý 2 quận, Mã Viện mới thu quân trở về nước năm 44. Quân Hán bị thương vong rất nhiều, khi trở về chỉ còn non nửa so với lúc xuất phát[14].
Chú thích ^ a ă Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X, Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006, tr. 96. ^ a ă â Văn Lang, Quỳnh Cư, Nguyễn Anh, Danh nhân đất Việt, Nhà Xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 1995, tr. 32. ^ Theo Đào Duy Anh trích từ Hậu Hán thư quyển 54 thì Mã Viện bị tổn thất 4, 5 phần 10. Dẫn từ Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, tr. 107. ^ a ă â b c d đ e Hậu Hán thư, Liệt truyện: quyển 24 - Mã Viện liệt truyện ^ a ă Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử VN từ nguồn gốc đến Thế kỷ X, tr. 97, Nhà xuất bản SP. ^ Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tr. 181. ^ Văn Lang, Quỳnh Cư, Nguyễn Anh - Danh nhân đất Việt, tr. 31, Nhà Xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 1995. ^ a ă Đào Duy Anh, Lịch sử VN từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, tr. 104. ^ Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tr. 182 ^ Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử VN từ nguồn gốc đến Thế kỷ X, tr. 98, Nhà Xuất bản SP. ^ Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử VN từ nguồn gốc đến Thế kỷ X, tr. 99, Nhà Xuất bản SP. ^ a ă â Đào Duy Anh, Lịch sử VN từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, tr. 105. ^ Đào Duy Anh, Lịch sử VN từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, tr. 106-7. ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, tập 1, tr. 185, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1991.a﴿ Nguyên nhân:
- Do chính sách thống trị tàn bạo của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Tô Định giết chết.
b﴿ Diễn biến:
- Mùa xuân năm 40 ﴾ tháng 3 dương lịch ﴿. Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ﴾ Hà Nội ﴿, nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh rồi tìm hiểu Cổ Loa, Luy Lâu.
- Tô Định hốt hoảng bỏ thành lẻn trốn về Nam Hả, quân Hán ở các quận khác bị đánh tan.
c﴿ Kết quả:
- Cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi.
Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông đảo, trong đó có phụ nữ đóng vai trò quan trọng. có chủ tướng chỉ huy là phụ nữ