+ Mực săn mồi bằng cách rình mồi một chỗ (đợi mồi đến để bắt), thường ẩn náu ở nơi có nhiều rong rêu, bắt mồi bằng 2 tua dài còn 8 tua ngắn đưa mồi vào miệng. Mực tự vệ bằng cách phun hỏa mực vào đối phương.Làm cho đối phương không nhìn thấy xung quanh.Khi đó mực liền bơi đi chộ khác.
+ Mực phun chất lỏng có màu đen để tự vệ là chính. Hỏa mù của mực làm tối đen cả 1 vùng nước, giúp mực che mắt kẻ thù để có thời gian trốn thoát. Mắt mực có số lượng tế bào thị giác rất lớn có thể vẫn nhìn rõ được phương hướng để trốn chạy an toàn.
Mực thường săn mồi theo cách rình mồi một chỗ, thường ẩn náu ở nơi có nhiều rong rêu. Sắc tố trên cơ thể của mực làm cho chúng có màu giống màu môi trường. Khi mồi vô tình đến gần, mực vươn hai tua dài ra bắt mồi rồi co về dùng 8 tua ngắn đưa vào miệng.
Tuyến mực phun ra mực dùng để tự vệ là chính, hỏa mù của mực phun ra làm tối đen cả một vùng nước, tạm thời che mắt kẻ thù, giúp mực đủ thời gian chạy trốn.
+Mắt mực có số lượng tế bào thị giác rất lớn có thể nhìn rõ phương hướng để chạy trốn kẻ thù
1. mực săn mồi bằng cách : rình một chỗ đợi mồi , thường ẩn náu ở nơi có nhiều rong rêu , bắt mồi băng 2 tua dài còn 8 tua còn lại đưa mồi vào miệng .
2. mực phun chất lỏng màu đen để tự vệ .
3 . hỏa mù làm tối đen cả một vùng nước che khuất mắt kẻ thù , giúp mực có đủ thời gian chạy trốn.
- do mắt mực có tế bào thị giác rất lớn nên vẫn có thể trốn chạy.
- tập tính săn mồi: Mực ẩn náu, rình rập con mồi, bắt mồi sử dụng tua dài
- Để tự vệ, hoả mù của mực làm tối đen cả một vùng nước, tạm thời che mắt kẻ thù, giúp cho mực đủ thời gian chạy trốn.
Mắt mực có số lượng tế bào thị giác rất lớn có thể vẫn nhìn rõ được phương hướng để trốn chạy an toàn.