Nghị luận văn học

Hien Le

Nguyễn Du- một trái tim lớn,một nghệ sĩ lớn .hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua đoạn trích trao duyên .Lập dàn bài rồi viết bài nha

Thảo Phương
14 tháng 4 2018 lúc 21:32

Một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn, ấy là thiên tài Nguyễn Du. Nguyễn Du thường nói đến cái Tâm và cái tài và đề cao: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Nhưng ở Nguyễn Du, người ta thấy sự cân xứng, hài hoà: một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn. Tâm lớn mà Tài cũng lớn. Đọc Nguyễn Du nhất là Truyện Kiều, người ta thấy đó là những lời lời châu, ngọc hàng hàng gấm thêu, và người ta cũng thấy rằng tất cả lời ngọc ý vàng ấy đều được viết ra từ một tấm lòng đau đớn cho thân phận con người, cho thời thế và cho nhân thế – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Ngọc của nghệ thuật Nguyễn Du đúng là kết tinh từ vết thương lòng của một con trái chìm nổi trong'biển đời!

Chúng ta đã nói đến trái tim của Nguyễn Du – trái tim mang trong nó một nỗi đau vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Du thấy trái tim ấy dành tình thương cho tất cổ: từ những người ông tận mắt chứng kiến đến những người được nghe kể, truyền tụng, từ người sống ở những thời đại khác, chân trời khác, từ người sang cho đến người hèn, từ trẻ thơ cho đến người già phụ nữ… Ông thương người mẹ lang thang cầu bơ cầu bất, lê mình đi ăn xin cho ba đứa con, thương những đứa tiểu nhi tấm bé, lỗi giờ sinh lìa cha, thương người ca kỹ ở đất Thăng Long, người hát rong ở đất Thái Bình… Ở đây là nỗi xót xa cho những Tiểu Thanh, Đạm Tiên, ở kia là nỗi đau đớn nghẹn lòng dành cho Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Văn Thiên Tường, Tỷ Can, Liễu Tử Hậu… Trái tim của Nguyễn Du thật dễ động, dễ tổn thương, sự đồng cảm của nó là không biên giới, không dễ tổn thương, sự đồng cảm của nó là không biên giới, không thời gian. Mọi nỗi buồn đau, thông khổ của kiếp người vang động đến đều có thể làm cho trái tim ấy rỉ máu. Ngòi bút của Nguyễn Du chấm vào thứ máu ấy mà viết nên những trang thơ.

Nhưng nhìn thật sâu vào, ta sẽ thấy ông xót xa nhất cho con người trong cảnh dâu bể, trong những đổi thay trớ trêu không lường của cuộc đời. Trong những cơn dâu bể, thân phận con người thật là mỏng manh, bị quăng quật, bị dập vùi, bị dày xéo, bị xoay vần đến xác xơ, tan tác. Cả xã hội phong kiến lần định mệnh mù quáng tai quái đều vào hùa với nhau để hành hạ con người. Mà trong cảnh bể dâu kia, thân phận bi kịch điển hình nhất là những người tài sắc. Họ như những bông hoa nở trong giống tố. Trong đó, danh nhân cũng hoá nạn nhân, vàng ngọc cũng hoá đất bùn…

Thương xót và căm phẫn, trái tim Nguyễn Du đã phẫn nộ trước những thế lực chà đạp con người, huỷ hoại tài năng. Đó là loài hổ báo, ruồi xanh, thuồng luồng… Trong bài Phản chiêu hồn, ông đã viết về cảnh đời nước Sở, (và có lẽ không chỉ của nước Sở), thuộc về một lũ thượng quan ngựa xe vênh váo, chúng không để lộ nanh vuốt nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường. Ông khuyên hồn của Khuất Nguyên đừng về mặt đất này mà hãy mau mau và hãy yên lòng thu tinh thần về với Thái Hư. Bởi:

Đời sau ai ai cũng là thượng quan

Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La

Cá rồng không ăn thịt, hùm sói cũng ăn mất.

Một mặt đất như thế làm gì có đất sông cho những tâm hồn cao khiết như Khuất Nguyên, những tài hoa như Đỗ Phủ, Liễu Tử Hậu!… Không chỉ phẫn nộ trước những thế lực xã hội, ông còn phẫn nộ với cả những thế lực siêu hình đã chụp lên đầu con người những định mệnh tàn nhẫn mù quáng:

– Chém cha cái số hoa đào

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!

– Phận sao phận bạc như vôi

– Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi.

(Cổ kim hán sư thiên nan vấn).

Và trong trái tim kia, ta thấy cái phần thông thiết nhất, ông đã dành cho thân phận bi kịch của những người đàn bà tài sắc. Họ là những kẻ hồng nhan bạc mệnh, tài hoa bạc mệnh. Đặc biệt là những kĩ nữ. Những kẻ ca kỹ có lẽ là nạn nhân bi đát nhất, thương tâm nhất trong cuộc đời đầy lang sói, hùm beo, nhan nhản những bọ buôn thịt bán người, trong cái cõi đời lắm biến thiên dâu bể này. Đó là những cô cầm hai mươi năm trước tài sắc nổi tiếng Long thành, vương hầu công tử, quan lại xúm xít quanh mình, thế mà nay đã thành một bà già tàn tạ: Tóc hoa râm mặt võ mình gầy bị bỏ quên ngay bên tiệc rượu. Đó là người sĩ đất La Thành, người hát rong ở Thái Bình. Đó là Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi – Nổi danh tài sắc một thì, thế mà nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương, giờ chỉ còn sè sè nấm đất bên đường… Đó là Tiểu Thanh: Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương không mệnh đốt còn vương… Và hơn tất cả, đó là Thuý Kiều: Làn thu thuỷ nét xuân sơn – Mây ghen thua thắm liễu hờn kém xanh, lại pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. ấy thế mà thật bạc mệnh: Khi sao phong gấm rủ là – Gió sao tan tác như hoa giữa đường, cả một kiếp người truân chuyên chìm nổi: Thanh Lâu hai lượt, thanh y hai lần. Bị dày xéo xuống tận bùn đen nhơ bẩn. Mỗi lần muốn ngoi lên vượt thoát kiếp sống ô nhục lại bị đạp xuống đau hơn, sau hơn, bế tắc hơn…

Viết về những con người ấy, đối với Nguyễn Du, cũng là viết về mình, cùng một lứa bên trời lận đận cả thôi! Vừa là lòng nhân ái của một con người dành cho một con người. Nhưng cũng là nỗi niềm của kẻ tri kỷ, nỗi niềm của kẻ cùng hội cùng thuyền, đồng bệnh tương lai! Thương người như thể thương thân. Nguyễn Du thấy mình ở trong họ, thấy họ ở trong mình. Cho nên lời thơ ông chân thành đến tận đáy lòng. Ông đã truyền được tất cả những đau đớn của trái tim vào những điều viết để thành những tiếng thơ ai động đất trời.

Nguyễn Du là ngòi bút thiên tài. Truyện Kiều vốn được sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết tài tử giai nhân không mấy tiếng tăm của Thâm Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Nhưng bằng một bút lực phi thường, ông đã sáng tạo thành một kiệt tác bất hủ. Truyện Kiều thực là một thế giới sống động, Nguyễn Du đáng được xem là một đấng hoá công đã sáng tạo nên thế giới ấy. Từ những nhân vật còn sơ lược, nhạt mờ, thậm chí tầm thường, thế mà thi hào đã thổi vào đó một sức sống mới tảo a một sức vóc mới, biến chúng thành những hình tượng bất hủ. Chẳng những các nhân vật chính diện: Thuý Kiều, Thuý Vân, Kim Trong, Từ Hải, Thúc Sinh… mà ngay đến cả những nhân vật phản diện cũng sắc nét, chân thực có ý nghĩa điển hình to lớn: Tú Bà, Hoận Thư, Sở khanh, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến… Có thể nói, Truyện Kiều là hình ảnh thu nhỏ của cả một xã hội đen tối thời phong kiến.

Là một nghệ sĩ lớn, Nguyễn Du không chỉ tài hoa trong khắc họa nhân vật mà còn hết sức tài hoa trong việc mô tả thiên nhiên. Có thể gặp trong Truyện Kiều những bức tranh tuyệt bút mà nền thơ ca có thể có. Mùa xuân thì: cỏ non xanh tận chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa – Dưới cầu nước chảy trong veo – Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Mùa hạ thì: Dưới trăng quyên đã gọi hè – Dầu tường lửa lựu lập lèo đơm bông. Mùa thu thì: Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san – Long lanh đáy nước in trời – Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng… Bức tranh nào cũng lộng lẫy mỹ lệ, hình tượng thơ như long lanh trên mặt đá quý, bức tranh nào cũng ánh lên cái thần thái của nó.

Nguyễn Du cũng là một bậc thầy về ngôn ngữ. Chưa có ở đâu mà tiếng Việt lại đẹp đẽ, trong trẻo giàu có hoàn hảo như trong Truyện Kiều. Chỉ một câu: Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương, có thể thấy chữ thoắt thần tình thế nào trong việc thể hiện cái bi kịch bạc mệnh bất ngờ của kiếp tài hoa ngắn ngủi của Đạm Tiên. Hay một câu: Cậy em em có chịu lời – Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Chỉ với bốn chữ cậy, chịu, lạy, thưa ta đã thấy sự chính xác đến tuyệt vời của chữ nghĩa Nguyễn Du trong việc thể hiện nỗi niềm đau đớn, cảnh ngộ trớ trêu của Thuý Kiều. Xuân Diệu là một thi sĩ hiện đại, cũng là một bậc thầy của ngôn ngữ, nhưng đã phải ngả mũ trước từng câu từng từ nhỏ nhất của Nguyễn Du. Ông thấy chữ nhuốm là tinh diệu: Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san, chữ chĩu là thần tình: Giọt sương chĩu nặng cành xuân la đà. Chữ thú là đầy bản lĩnh: Giang hồ quen thú vẫy vùng…

Có thể nói tiếng Việt của chúng ta được giàu có và đẹp đẽ như ngày nay, có một phần rất lớn thuộc về công lao gọt giũa, tinh luyện của những nghệ sĩ lớn như Nguyễn Du.

Là một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn – Nguyễn Du xứng đáng được coi là một thiên tài, một danh nhân văn hoá, không chi của Việt Nam mà còn là của chung nhân loại. Việc UNESCO tổ chức kỷ niệm 200 năm sinh thi hào Nguyễn Du trên phạm vi thế giới là một đánh giá xứng đáng đối với tầm cỡ củã ông. Ông thuộc về những người có thể làm vinh dự cho mọi nền văn hoá.

Bình luận (1)
Thảo Phương
14 tháng 4 2018 lúc 21:34

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

- Nắm được cách làm bài nghị luận văn học: Vận dụng kiến thức làn rõ một nhận định

- Bố cục chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, dẫn chứng chọn lọc

II/ Yêu cầu về kiến thức

1. Giải thích nhận định

- Trái tim lớn: tấm lòng giàu yêu thương của Nguyễn Du với con người, với cuộc đời

- Nghệ sĩ lớn: Tài năng lỗi lạc của đại thi hào

=> Khẳng định hai yếu tố làm nên thành công của Nguyễn Du trong Truyện Kiều: tâm và tài; nhấn mạnh hơn “tâm’’ – trái tim , tấm lòng

2. “Trái tim lớn“ , “nghệ sĩ lớn’’ qua đoạn thơ Trao duyên

2.1.Tài năng của Nguyễn Du

- Sáng tạo một tình huống bi kịch đầy éo le: bi kịch tình yêu tan vỡ

- Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật: tinh tế, sâu sắc (qua đối thoại, qua độc thoại...)

- Ngôn ngữ: sử dụng từ thuần việt, lối nói dân gian, biện pháp tu từ... - Thể thơ: lục bát với giọng điệu trầm lắng, xót xa

2.2.Tấm lòng yêu thương của Nguyễn Du

- Đồng cảm sâu sắc với bi kịch của con người đặc biệt là người tài hoa bạc mệnh.

- Đồng tình với khát khao tình yêu, hạnh phúc của tuổi trẻ; ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của Thúy Kiều: vị tha, nhân hậu, tinh tế

- Lên án xã hội đã vùi dập tình yêu, hạnh phúc của con người

3. Bàn luận ( Mối quan hệ giữa tài và tâm)

- Tình cảm là gốc, là cốt lõi của thơ ca

- Tài năng: tạo nên sức lay động của tình cảm, khiến tình cảm đến được với trái tim người đọc.

- Sự kết hợp của trái tim và nghệ sĩ, của tâm và tài làm nên sức hấp dẫn, vẻ đẹp của đoạn thơ cũng là của tác phẩm Truyện Kiều

Bình luận (1)

Các câu hỏi tương tự
Bear Doremi
Xem chi tiết
thu nguyen
Xem chi tiết
Nghi Nghi
Xem chi tiết
Vân Trần Thị Hồng
Xem chi tiết
Lucy Châu
Xem chi tiết
Nagisa Motomiya
Xem chi tiết
Phương Thảo
Xem chi tiết
nguyễn thị quyên
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Lan Anh
Xem chi tiết