Trong hai văn bản "Chiếc Lá Cuối Cùng" và "Cô Bé Bán Diêm" của hai tác giả An-đéc-xen và O Hen-ri đều nói lên lòng nhân ái.Với văn bản "Chiếc Lá Cuối Cùng" đã nói lên tình yêu thương giữa con người đối với con người vô cùng cao cả giữa những con nghười nghèo khổ.Còn về văn bản "Cô Bé Bán Diêm" lại là một mặt khác để nói lên sự vô cảm của những người xung quanh.Nhưng lại nhờ vào tấm lòng yêu thương,nhân đạo và sự thông cảm của tác giả cô bé đã ra đi một cách thanh thản.Qua đó,cũng đã cho ta thấy lòng nhân ái là một phẩm chất cao quý của con người.Và nhờ vào lòng nhân ái đó con người sẽ không cần phải quá đau khổ hay quá nghèo đói.Vì vậy,chúng ta cần phải mở lòng từ bi cứu giúp những người khó khăn thì cuộc sống sẽ trở nên tươi đẹp hơn.
Chiếc Lá Cuối Cùng
Chiếc lá cuối cùng là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn ắp tràn tình thương yêu và niềm tin với con người, một bức thông điệp khẳng định sứ mạng và sức mạnh của nghệ thuật chân chính. Câu chuyện kể về cuộc sống chật vật của những người hoạ sĩ nghèo: hai nữ họa sĩ trẻ Xiu và Giôn-xi sống cùng căn hộ với người họa sĩ già Bơ-men.
Những khó khăn về vật chất đã vắt kiệt sức sáng tạo, khiến họ lâm vào cảnh bi đát. Cụ Bơ-men suốt bốn chục năm mơ ước vẽ một bức kiệt tác mà không thực hiện được, đành phải ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền còn nuôi thân. Giôn-xi bị sưng phổi, bệnh tật và nghèo túng đã lấy nốt của cô niềm tin vào cuộc sống. Chỉ còn lại Xiu mòn mỏi với những bức vẽ và ám ảnh bởi suy nghĩ của Giôn-xi: Cô gái bệnh tật ấy đang đếm từng chiếc lá rơi để chờ định mệnh phán quyết mạng sống của chính mình, với niềm tin khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô sẽ ra đi... Không gian cuộc sống của những con người khốn khổ ấy lạnh lẽo u ám như mùa đông, nặng trĩu những buồn lo.
Đáng sợ làm sao khi mỗi ngày trôi đi trong gió tuyết và những cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng, những chiếc lá thường xuân tiếp tục rơi xuống, chỉ còn lại một chiếc lá cuối cùng để Giôn-xi như nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần. Có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy rối lòng, bất lực trước một con người đã buông xuôi, chán sống. Bởi thế nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của Xiu và cụ Bơ-men lúc Giôn-xi đang ngủ: "Họ sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì". Có lẽ trong giây phút đó, họ đã nhìn thấy nhánh thường xuân cuối cùng trụi lá rồi chăng? Dường như cùng với cái khắc nghiệt của trời đông, mưa gió, họ có thể đoán trước được điều gì khi Giôn-xi tỉnh dậy vào sáng hôm sau và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng.
Trong hoàn cảnh này, người đau khổ nhất không phải là Giôn-xi mà chính là cô gái trẻ Xiu. Bởi lẽ, cô là người sẽ phải chứng kiến toàn bộ tấn bi kịch sắp diễn ra vào sáng hôm sau khi Giôn-xi lại nhìn ra cửa sổ. Nhà văn không mô tả cụ thể tâm trạng Xiu, chỉ cho biết cô "tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ", như vậy có nghĩa là cô đã phải trải qua một đêm trắng đầy âu lo thổn thức, trong sự bồn chồn và bất lực. Một đêm mưa gió ngoài trời dữ dội, một chiếc lá mong manh bám trên bức tường gạch chắc chắn sẽ bị vùi dập tơi tả, không chống chọi nổi sự tàn phá của tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sau phút kéo mành lên, Giôn-xi sẽ nhìn thấy cái chết của chính mình. Nhưng Xiu cũng không thể chịu được khoảnh khắc nhìn thấy "Giôn-xi đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu xanh đã kéo xuống". Không kéo mành lên cũng không được, vì như vậy Xiu sẽ mang mặc cảm chính mình mới là người gây ra cái chết của Giôn-xi. Ta hiểu tâm trạng của cô khi làm theo một cách chán nản, bản thân cô cũng không còn phương cách nào giúp cho người đồng nghiệp, người em gái kia từ bỏ suy nghĩ điên rồ đáng sợ kia.
Chính vào lúc ấy, một hình ảnh bất ngờ đã làm đảo lộn mọi dự đoán, đảo ngược cả tình huống tưởng như chắc chắn trong dự định của Giôn-xi, trong nỗi lo của Xiu và trong sự thất vọng của mọi người. Tình huống ấy đã thắp lại niềm hy vọng như một phép màu: Vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Có lẽ người vui mừng nhất lúc này là Xiu, vì chiếc lá cô nhìn thấy không phải là một ảo ảnh: "Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ". Còn Giôn-xi? Cô cũng nhận ra: "Đó là chiếc lá cuối cùng", thừa nhận sự thật một cách miễn cưỡng và tiếp tục suy nghĩ: "Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết".
Giôn-xi thật đáng thương nhưng cô cũng thật đáng trách khi vẫn đeo đuổi ý định từ bỏ cuộc sống. Cô chìm đắm trong ý nghĩ kỳ quặc của mình, mặc kệ những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn và với thế gian cứ lơi lỏng dần từng sợi một. Cô đã phụ lòng của Xiu, bởi lẽ cô đã xem nỗi đau của mình lớn hơn tất cả mọi sự quan tâm lo lắng của mọi người. Trong thời điểm ấy, sẽ không ai có thể giúp đỡ cô, ngoại trừ chính bản thân cô. Thời gian một ngày kéo dài đằng đẵng để Giôn-xi chứng kiến chiếc lá thường xuân chống chọi với mùa đông khắc nghiệt. Chiếc lá bướng bỉnh ấy không chấp nhận sự buông xuôi của một cô gái còn quá trẻ. Thế nhưng, khi con người ấy đã chấp nhận đầu hàng số phận, thì sức mạnh của màn đêm buông xuống, gió bấc ào ào, mưa đập mạnh vào cửa sổ lại có một uy lực khiến cho Giôn-xi không còn một niềm tin nào vào sự sống của chính mình. Sự cố chấp ấy quả thật đáng chê trách.
Nhà văn đã tạo ra một tình huống thử thách trước số phận của Giôn-xi, để rồi, cuối cùng người đọc có thể thở phào nhẹ nhõm: "chiếc lá thường xuân vẫn còn đó". Chiếc lá mong manh ấy đã chiến thắng được thời tiết khắc nghiệt, để tạo ra một bước ngoặt trong nhận thức của Giôn-xi. Cuối cùng, cô gái ấy đã nhận ra sự ích kỷ tồi tệ của bản thân mình. Chiếc lá cuối cùng đã cứu sống một sinh linh. Trước hết là thức tỉnh khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm hồn của Giôn-xi, để cô nhận ra: "có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội. Phép nhiệm màu đã xảy ra, vượt qua tất cả những quy luật thường tình của thiên nhiên tạo hoá, khiến Giôn-xi không hiểu và không sao hiểu được. Phải chăng, Thượng đế chí công và nhân từ không nỡ để một cô gái trẻ phải sớm giã từ cuộc sống? Không những thế, sau thời khắc bừng tỉnh, cô gái Giôn-xi đã lại bắt đầu mơ ước về tương lai: "một ngày nào đó em sẽ vẽ được vịnh Na- plơ". Thượng đế thật công bằng, vị thượng đế ấy có tên là... Bơ-men.
Người hoạ sĩ già khốn khổ ấy không có quyền năng tối thượng của Thượng đế, nhưng ông có một trái tim giàu lòng thương cảm. Hoá ra, trong thời điểm làm mẫu cho Xiu, con người ấy đã đi đến một quyết định táo bạo, đoạt quyền của Đấng-toàn-năng bằng chính khả năng của mình. Con người đã bốn mươi năm theo đuổi kiệt tác mà không thành công đã tạo nên một kiệt tác cuối cùng của đời mình: Chiếc lá cuối cùng! Khi bắt tay vào công việc, người nghệ sĩ chân chính ấy đã âm thầm hành động với ước nguyện thật cao cả: Trả lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi. Không ai được biết có bao nhiêu tinh hoa đã phát tiết trong giờ phút vẽ nên chiếc lá trên tường của cụ Bơ-men. Tất cả đều diễn ra quá bất ngờ, đến nỗi cả Xiu là người đã chứng kiến giờ phút chiếc lá cuối cùng rụng xuống cùng cụ Bơ-men cũng phải bàng hoàng. Ta chợt hiểu những lời nói hối hả của cô với Giôn-xi: "Em thân yêu, thân yêu. Em hãy nghĩ đến chị, nếu như em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?". Cô đã hiểu tất cả, nhưng không dám nói rõ cho Giôn-xi, bởi lẽ cô chưa thể hình dung ra phản ứng của Giôn-xi trước một sự lừa dối bắt nguồn từ lòng tốt của người hoạ sĩ già. Lời nói ấy còn bộc lộ một niềm sung sướng vô biên của Xiu trước giải pháp tình thế mà cụ Bơ-men đã nghĩ ra trong đêm chiếc lá cuối cùng thực sự đã rụng xuống. Bởi thế, lần kéo mành vào hôm sau, ta không còn gặp tâm trạng chán nản đến cùng cực của Xiu nữa.
Vì sự sống của một cô gái, cụ Bơ-men đã bất chấp thử thách của thời tiết khắc nghiệt, quên đi sự sống của bản thân mình. Có lẽ bản thân cụ cũng không ngờ đó là bức vẽ cuối cùng của cuộc đời mình, nhưng chắc chắn một điều khi người hoạ sĩ ấy vẽ chiếc lá, bức vẽ ấy không nhằm để lưu lại tên tuổi nghệ sĩ với đời. Điều đáng quan tâm lúc đó là sự sống đã tắt trong tâm hồn một cô gái trẻ, làm thế nào để cô thôi không bị ám ảnh bởi quy luật lạnh lùng của tạo hoá, để rồi vươn lên giữa cuộc đời bằng chính sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô. Đó là lúc người hoạ sĩ già ấy hiểu thấu sứ mạng vinh quang và cao cả của nghệ thuật: Hướng về con người chứ không phải là nhằm tạo chút danh tiếng hão huyền, nghệ thuật chỉ thật sự bắt đầu khi sáng tạo của người nghệ sĩ giúp ích cho đời.
Cuối cùng thì Giôn-xi đã vượt qua cửa ải của chính mình, trở lại với niềm tin sự sống nhờ niềm tin vào sức sống mãnh liệt từ chiếc lá cuối cùng - tác phẩm của cụ Bơ-men. Nhưng người nghệ sĩ già ấy đã phải trả một cái giá quá đắt bằng chính mạng sống của mình. Giôn-xi chỉ được biết điều ấy khi đã thật sự bình phục bằng nghị lực của chính mình. Qua lời thuật lại của Xiu, ta hiểu được lòng biết ơn của Xiu đối với người hoạ sĩ cao cả ấy, và cô muốn nhắc nhở Giôn-xi không thể vô ơn trước sự hy sinh của một con người chân chính, vì sự sống của đồng loại đã không ngần ngại xả thân. Cụ Bơ-men đã nhiễm chính căn bệnh sưng phổi của Giôn-xi vào lúc tạo nên chiếc lá cuối cùng giữa một đêm đông mưa gió lạnh lẽo. Chi tiết xúc động này khiến ta tin rằng Giôn-xi dù biết rằng chiếc lá ấy là một sản phẩm nhân tạo, nhưng chắc chắn cô sẽ không bao giờ hối hận trước một sự lừa dối cao cả như thế, Người hoạ sĩ già Bơ-men là hiện thân của sự cao thượng, lòng vị tha, đức hy sinh của một con người chân chính.
Câu chuyện kết thúc bằng một sự đảo ngược tình huống lần thứ hai. Chiếc lá cuối cùng là một sự lừa dối, nhưng lại là một sự lừa dối cao cả để đem lại niềm tin vào sự sống cho con người. Kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già đã được ra đời nằm ngoài tất cả mọi dự đoán của công chúng. Nhưng chiếc lá cuối cùng ấy mãi mãi là bằng chứng của tấm lòng yêu thương con người. Bởi thế, Chiếc lá cuối cùng sẽ mãi bất tử với thời gian.
Cô Bé Bán Diêm
Không chỉ là nhà văn nổi tiếng sáng tác truyện cho trẻ em, An-đéc-xen còn là được biết đến là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng. Những tác phẩm của ông có sức sống lâu bền, được bạn đọc trên khắp năm châu biết đến và một trong số những tác phẩm như thế đó chính là truyện Cô bé bán diêm. Đọc Cô bé bán diêm, người đọc sẽ được cảm nhận một cách chân thực và sâu sắc thông điệp và tấm lòng nhân ái của nhà văn An-đéc-xen.
Trước hết, tấm lòng nhân ái của nhà văn An-đéc-xen trong Cô bé bán diêm được thể hiện ở niềm thương cảm với những con người nghèo khổ đặc biệt là trẻ em bất hạnh. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần nghe kể hay một lần đọc truyện Cô bé bán diêm sẽ không thể nào quên nổi những dòng văn nhà văn kể về hoàn cảnh của cô bé bán diêm. Giữa cái rực sáng của ánh đèn và mùi thơm của ngỗng quay ở khắp thành phố trong đêm giao thừa, cô bé bán diêm mồ côi mẹ ấy vẫn một mình trên đường dưới cái giá rét của trời đông "đầu trần, chân đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối". Khi nhà nhà đã bắt đầu chuẩn bị cho đêm giao thừa, cô bé tội nghiệp ấy vẫn không dám trở về nhà vì cả ngày em không bán được bao diêm nào rồi em sẽ bị bố đánh. Bằng bút pháp đối lập, tương phản giữa hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp của cô bé với không gian rực rỡ ánh đèn, sự ấm áp trong mỗi ngôi nhà tác giả đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của mình trước hoàn cảnh của cô bé, đồng thời, qua đó cũng gợi lên trong người đọc niềm cảm thương với những số phận nghèo khổ, đặc biệt là trẻ em.
Thêm vào đó, tấm lòng nhân ái của An-đéc-xen còn được thể hiện ở sự cảm thông và tình yêu thương sâu nặng đối với em bé đáng thương, bất hạnh. Giữa cái giá rét, trong màn đêm với làn tuyết mỗi lúc một dày đặc lên, "em ngồi nép trong một góc tường" - nơi có nhiều người qua lại với niềm hi vọng mong manh có ai đó sẽ nhìn thấy và giúp em. Nhưng không, người qua đường vẫn cứ thế vội vã đi qua, tuyết vẫn cứ rơi mỗi lúc một dày thêm và rồi em bé đánh liều và quyết định đánh một que diêm để sưởi ấm cho mình. Và để rồi, sau những lần quẹt diêm ấy, giữa hai bờ của hiện thực và mộng ảo, nhà văn đã để cho em bé có những giấc mơ thật đẹp nhưng cũng thật xót xa. Quẹt que diêm thứ nhất, em bé tưởng tượng mình đang ngồi trước một cái lò sưởi với "một hơi nóng dịu dàng" nhưng rồi ánh sáng của que diêm vụt tắt, để lại trong em nỗi sợ hãi sẽ bị bố đánh vì cả ngày không bán được que diêm nào. Rồi trong cơn rét ấy, cái đói cũng bủa vây lấy em, em lại tiếp tục đốt que diêm thứ hai, lần này, em nhìn thấy một con ngỗng quay với mâm cỗ thịnh soạn nhưng rồi que diêm ấy cũng vụt tắt, "thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm". Dường như, ánh sáng của que diêm đã đem đến cho cô bé một thế giới mới - một thế giới ấm áp mà cô hằng ao ước nhưng đến cuối cùng, ánh sáng ngắn ngủi, chốc lát đã vụt biến mất, để lại em bé với màn đêm với những bức tường thờ ơ, lạnh lẽo trong đêm tối giá rét. Chỉ còn lại một mình trong đêm tối, em bé lại quẹt que diêm thứ ba nhưng lần này em không còn mơ thấy lò sưởi, không còn thấy ngỗng quay hay bàn ăn thịnh soạn mà thay vào đó là "một cây thông Nô-en", "cây này lớn và được trang trí lộng lẫy hơn cây năm ngoái em nhìn thấy" với "hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi"... Có lẽ giờ đây, em bé tội nghiệp ấy ước mong được đón Nô-en, được đón một đêm giao thừa ấm áp. Nhưng ánh sáng của que diêm thứ ba cũng vội vụt tắt đi. Lúc ánh sáng của que diêm ấy vụt tắt đi đó cũng là những ngọn nến trên cây thông kia "bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời". Rồi em bé ấy nghĩ đến cái chết như một lẽ tự nhiên bởi em nhớ người bà yêu quý của em đã từng nói "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế". Rồi em quẹt thêm một que diêm nữa vào tường, lần này em đã được gặp người bà hiền hậu, yêu quý của em và em xin phép bà cho em được theo cùng "cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu". Nhưng rồi đến cuối cùng, ánh sáng của que diêm ấy cũng đã vụt tắt. Cuối cùng, em bé tội nghiệp đã đốt hết những que diêm còn lại để níu chân bà ở lại nhưng điều đó là không thể, hai bà cháu đã nắm tay nhau về với Thượng đế. Như vậy, bằng những yếu tố tưởng tượng, kì ảo, tác giả An-đéc-xen đã để cô bé bán diêm thực hiện được những mong ước của mình - những thứ mà trong cuộc sống đời thường cô bé tội nghiệp, đáng thương ấy chưa bao giờ có được. Điều ấy xét đến cùng là biểu hiện của sự cảm thông và tình yêu thương sâu sắc mà tác giả An-đéc-xen dành cho cô bé bán diêm tội nghiệp.
Và cuối cùng, nỗi xót xa trước cái chết của cô bé là minh chứng cuối cùng cho tấm lòng nhân ái của nhà văn An-đéc-xen. Truyện kết thúc với hình ảnh "một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười" và ở bên cạnh em bé ấy "một bao diêm đã đốt hết nhẵn" thì những người đang vội vã bước đi kia không thể nào biết được "những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm". Em bé đã chết không chỉ bởi cái lạnh lẽo, giá rét của tiết trời mà còn bởi sự vô tâm, thờ ơ của chính những con người trong xã hội ấy. Kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh cái chết của cô bé và sự vô tâm của những người qua đường, tác giả đã thể hiện nỗi đau xót xa trước những số phận nghèo khó, đặc biệt là trẻ em và gián tiếp lên án sự vô tâm, thờ ơ, dửng dưng của những con người trong xã hội.
Tóm lại, trong truyện Cô bé bán diêm, nhà văn An-đéc-xen đã thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân ái của mình với những số phận, cảnh đời nghèo khó, đặc biệt là trẻ em. Đồng thời, qua đó nhà văn muốn gửi tới người đọc mọi thế hệ bức thông điệp, bài học giàu ý nghĩa về tình yêu thương giữa con người với con người.
Chúc bạn học tốt ^^