Đề bài :Tóm tắt và nhận xét cốt truyện tác phẩm “Chiếc lược ngà” - Nguyễn Quang Sáng

Hồ Thị Quỳnh Trâm

em hãy nhận xét về nhân vật bé Thu trong truyện " chiếc lược ngà "

 

qwerty
6 tháng 12 2016 lúc 20:29

Nhà văn Nga Aimatôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm trường kì của nhân dân Nam bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp. Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của hai cha con bé Thu- anh Sáu.} Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má. Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không thể gọi ba với bất kì một người nào khác.
Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”. Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, chạy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình” vì nó khiến ta bồi hồi xúc động, không muốn cắt đi khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, anh Sáu. Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này. Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.
Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời, quabé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp.

Có một nhà văn đã từng nói “không có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ông đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.

Bình luận (1)
Linh Phương
8 tháng 12 2016 lúc 13:55

Hoàn cảnh đất nước chiến tranh chính vì vậy Thu phải xa người cha của mình, những hình ảnh về người cha chỉ được Thu hình dung qua bức ảnh được treo trong nhà, khi được nghỉ phép ông Sáu trở về nhà, khi về nhà ông Sáu gọi Thu nhưng Thu không nhận ra đó là người cha của mình, hình ảnh của người cha trong tưởng tượng của Thu khác với hình ảnh này, chính vì vậy Thu không chấp nhận được những điều đó, những hình ảnh đó đã tác động sâu sắc lên trong con người của Thu, hình ảnh về người cha khác với bức ảnh chính vì vậy cô không chấp nhận được sự thật. Diễn biến câu chuyện của Thu đã diễn ra rất chi tiết và nó đã trở thành một guồng cảm xúc riêng và đặc biệt nổi bật trong những chi tiết đó, hình ảnh về những điều đó mang những nỗi nhớ thương sâu sắc trong lòng của tác giả.

Hình ảnh bé Thu khi người cha trở về, khi ông Sáu gọi Thu bằng con, Thu đã giật mình, ngơ ngác và giật mình thét lên gọi mẹ, khi được mẹ nói đây là cha thì Thu không chấp nhận được điều đó, trong bữa cơm khi nấu xong mẹ Thu bảo mời cha vào ăn cơm thì Thu đã dùng những lời nói trống không để nói với ông vô ăn cơm, những lời nói đó đã thể hiện được Thu chưa chấp nhận được những điều đó, những điều đó đã tác động lớn đến mọi suy nghĩ và cảm xúc của Thu, hành động của Thu chứng tỏ cô bé này chưa chấp nhận được những điều này, những sư thật đó đã làm cho cô đau đớn và không thể nào chấp nhận được một người khác hoàn toàn trên ảnh, trên khuôn mặt lại có những vết thẹo rất đáng sợ, những điều đó đã tác động mạnh đến tâm lý của cô bé này.

Khi trong bữa cơm ông Sáu gắp thức ăn cho thì Thu đã gảy nó đi, những hành động đó đã làm cho mẹ Thu tức giận, và rồi Thu đã bỏ về nhà ngoại ở, khi về đó, Thu được giải thích và thấu hiểu được những điều mà cha của mình đã phải trải qua, chiến tranh đã cướp đi khuôn mặt của ông, những nỗi đau đó đã làm cho bé Thu tự giằn vặt chính bản thân mình, bé Thu đã quay về nhà và những giây phút cuối cùng bé được ở bên người cha của mình, những giây phút đó đã thể hiện được những nỗi đau đớn trong tâm hồn của bé, những hành động trước đây bé đã hành động làm cho bé Thu cảm thấy đau đớn và tự giằn vặt chính bản thân mình, những điều đó đã làm cho bé cảm thấy đau đớn và hành động như những người mang những suy nghĩ riêng, hành động đó làm cho bé Thu buồn và sầu sĩ những nỗi đau đó mang những điều thật tuyệt vời, những điều đó đã làm cho cô không còn mong muốn điều gì thêm và điều quan trọng bây giờ của cô là được ở bên người cha của mình.

Bình luận (0)
Kithy
19 tháng 2 2018 lúc 19:21

Thời chống Mĩ, nhà thơ Tố Hữu có viết:

Tuất gươm không chịu sống quỳ,

Tuổi xanh chẳng tiếc, sá chi bạc đầu.

Lóp cha trước, lóp con sau,

Đã thành đồng chí, chung câu quân hành".

("Tiếng hát sang xuân" - 1965)

Vần thơ ấy gợi nhớ trong lòng ta thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng thời đánh Mĩ. Hình ảnh nhân vật Thu - nữ giao liên trong truyện "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã cho ta nhiều ngưỡng mộ.

Qua nhân vật ông già, Nguyễn Quang Sáng đã dành cho cô Thu, giao liên bao tình cảm quý mến và trân trọng. Ông cảm thông với cái ương bướng "cứng đầu" của em bé, chỉ vì vết sẹo chiến tranh trên gương mặt người lính từ mặt trận trở về mà một tiếng "ba" cũng không chịu gọi. Hình ảnh bé Thu "hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba", cùng với cử chỉ "dang cả hai chân rồi câu chặt ba nó", không chịu cho ba nó lên đường đi xa, mãi mãi là hình ảnh rất cảm động cả hai cha con giữa thời máu lửa. Giây phút giã biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi buồn đau từ câu chuyện đã cứa một nhát dao ứa máu và tê tái vào lòng người bấy nay !

Năm anh Sáu đi bộ đội, bé Thu mới lên 1 tuổi. Năm hai cha con gặp lại nhau. Thu gần 9 tuổi. Năm 1958, ông già Sáu hi sinh, con gái ông mới 13 tuổi. Năm 16 tuổi cô mới nhận được chiếc lược ngà của cha cô gửi lại, cô đã trở thành một nữ chiến sĩ giao liên "rất thông minh, mưu trí".

Cô Thu giao liên có bao phẩm chất anh hùng. Lọt vào ổ phục kích giặc, cô vẫn mưu trí đánh lừa chúng, thoát hiểm. Cô có tài phân biệt từ rất xa "thằng nào là thằng Mỹ, thằng nào là ngụy” bằng "cái mũi rất thính" của mình. Chuyến công tác đưa đoàn cán bộ từ trạm M.G đến trạm L.A, giữa đường gặp bọn biệt kích, cô đã ở lại chặn địch. Sáng hôm sau, cô xuất hiện ở binh trạm "quần áo bùn đất bê bết và đầm ướt", vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà gương mặt "cứ phơi phới" lạ thường ! Cặp mắt "trong sáng , nước da rám nắng, đôi tai đeo bông tòng teng, vừa duyên dáng, vừa hồn nhiên... đó là đứa con gái của ông Sáu. Chúng ta xúc động cảm thấy cô chiến sĩ giao liên đang đi tiếp con đừơng chiến đấu gian khổ, vô cùng oanh liệt, vẻ vang của cha anh.

Tình tiết cô giao liên gặp lại ông già, đồng đội của ba mình và nhận chiếc lược ngà nói lên vật kí thác thiêng liêng đã tìm đến đúng địa chỉ. Nhận được kỉ vật bố gửi lại, cô Thu "đôi mắt tròn to hơn... xúc động đến thẩn thờ". Tuy biết ba mình đã hi sinh, nhưng xem dòng chữ: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba", cô cảm thấy được gặp lại bóng hình người cha thân yêu. Gần 10 năm đã trôi qua. Cô Thu đã khóc "hai giọt lệ sắp rơi xuống bỗng vỡ ra tràn đầy qua đôi mắt". Tình đồng đội, tình đồng chí chiến đấu thủy chung đã giúp cho chiếc lược ngà đến tay cô giao liên. Và những giọt nước mắt của cô Thu là giọt khóc về tình phụ - tử sâu nặng.

Cảnh giã biệt giữa ông già và cô giao liên diễn ra trên một không gian nghệ thuật đầy ấn tượng. Những đợt sóng lúa xanh nối nhau rập rờn như chạy đến "vỗ về" chân cô giao liên. Từ rừng dừa bị chất độc hóa học, cọng tàu dừa khô như những chiếc gươm khổng lồ, những "đọt non vừa mới đâm lên, xa trông như một rừng gươm.. ". Đó là chất thơ trong văn xuôi của Nguyễn Quang Sáng. Cảnh sắc ấy mang hàm nghĩa: Thế trận nhân dân là một rừng cây, một rừng người: lớp người trước ngã, lớp người sau tiếp bước tiến lên "như một rừng gươm" dào dạt sức sống trẻ trung và dũng mãnh.

Nhân vật Thu, nữ chiến sĩ giao liên đã tô đậm chủ đề của tác phẩm “Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Qua đó, ta càng thấm thía sự nối tiếp của các thế hệ Việt Nam anh hùng đã làm cho dáng đứng Việt Nam thêm hào hùng, tráng lệ.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Phạm Minh Đức
Xem chi tiết
Tuấn khải Vương
Xem chi tiết
LòVănHương
Xem chi tiết